Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 119/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 119/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 220/2022/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 453/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 440/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ng T N, sinh năm 1957; địa chỉ: ấp Bình Phú, xã BPX, huyện CM, tỉnh An Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Bà H N C(Cẩm Tú), sinh năm 1979; địa chỉ: ấp Bình Phú, xã BPX, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tự khai của bà Ng T N trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:

Do chỗ hàng xóm quen biết nên bà Ng T N có tham gia dây hụi do bà H N C(Cẩm Tú) làm chủ hụi, cụ thể như sau:

- Hụi 1.000.000 đồng/ tháng, hụi hưởng hoa hồng 500.000 đồng/lần, khởi sự ngày 25/4/2020al (có nhuần 02 tháng 4), hụi kết thúc ngày 25/4/2022al, hụi gồm 24 phần và 15 hụi viên, bà Nga có tham gia 01 phần, (trên giấy hụi thể hiện tên bác 5 Ne). Dây hụi này bà Nga có góp được 08 lần, đến lần thứ 09 thì bà Chi tuyên bố bể hụi. Do đó, dây hụi này bà Nga được hưởng với số tiền: 08 lần x 1.000.000 = 8.000.000 đồng (đã có lãi hụi).

Nay bà Nga yêu cầu bà H N C(Cẩm Tú) có nghĩa vụ trả cho bà Nga số tiền nợ hụi trong dây hụi mà ông đã góp là 8.000.000 (tám triệu) đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: Giấy chứng minh nhân dân, sồ hộ khẩu gia đình (bản sao); danh sách hụi viên ngày 25/4/2020al (bản photo).

Bị đơn: Bà H N C(Cẩm Tú) đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập bà đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bà Chi vẫn vắng mặt, không rõ lí do.

Tại phiên tòa:

Bà Ng T N vẫn giữ quan điểm như đã trình bày, và không giao nộp thêm tài liệu chứng cứ.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, bảo đảm các trình tự, thủ tục và quyền tranh tụng tại phiên tòa.

- Đối với nguyên đơn: Bà Ng T N, từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Bà H N Ctừ khi thụ lý vụ án, đã được Tòa án thực hiện thủ tục niêm yết đúng quy định nhưng vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nga nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử là phù hợp quy định Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Hợp đồng hụi giữa bà Chi và bà Nga được xác lập trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận, được thể hiện qua giấy hụi do bà Chi lập, ký tên, bà Nga tham gia với tư cách hụi viên với tên gọi “Bác 5 Ne”. Quá trình tham gia dây hụi, do bà Chi ngưng khui hụi và tuyên bố vỡ hụi. Bà Nga có yêu cầu bà Chi trả tiền hụi nhưng bà không thực hiện, do đó có cơ sở xác định giữa bà Chi, bà Nga có tồn tại giao dịch hụi. Do bà Chi vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên bà Nga yêu cầu bà Chi trả số tiền 8.000.000 đồng là phù hợp Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Đối với yêu cầu rút lại yêu cầu tính lãi suất của bà Nga là sự tự nguyện của bà nên cần đình chỉ theo Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Từ những phân tích trên, căn cứ các Điều 471 Bộ luật Dân sự, Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Công nhận hợp đồng góp hụi giữa bà Ng T N với bà Huỳnh Ngọc Chi.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng T N.

- Buộc bà H N Ctrả cho bà Ng T N số tiền 8.000.000 đồng.

- Đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi suất của bà Ng T N đối với số tiền 8.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn bà H N C(Cẩm Tú) về hợp đồng góp hụi được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; và bị đơn có nơi cư trú: xã BPX, huyện CM, tỉnh An Giang. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà H N C(Cẩm Tú) đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H N C(Cẩm Tú) theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về hợp đồng góp hụi, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; lời trình bày của nguyên đơn; căn cứ vào danh sách hụi viên ngày 25/4/2020al giữa hụi viên bà Ng T N và chủ hụi bà Huỳnh Ngọc Chi, thì thấy, theo danh sách hụi thể hiện “bác 5 Ne” có tham gia giao dịch hụi do bà Chi làm chủ hụi. Hội đồng xét xử xác định giữa bà Nga với bà Chi có ký kết hợp đồng góp hụi giữa hai bên phù hợp với quy định của pháp luật. Nên được pháp luật công nhận và bảo vệ, do bà Chi tuyên bố bể hụi, nhưng bà Chi không trả số tiền hụi khi bà Nga có yêu cầu là vi phạm nghĩa vụ thanh toán được quy định tại Điều 282, Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015. Ngoài ra, lời khai ngày 15/7/2022 do bà Phạm Hoài Như trình bày có tham gia các dây hụi cùng với bà Ng T N do bà H N Clàm chủ hụi, hiện nay bà Chi còn nợ bà Nga tổng số tiền là 8.000.000 đồng nên yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.

[2.2] Xét thấy, bà H N Ctrong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn bà Chi vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa, không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó, đủ căn cứ để xác định nguyên đơn có tham gia hụi do bị đơn bà H N Clàm chủ hụi và hiện nay bà Chi còn nợ lại bà Nga số tiền là 8.000.000 đồng. Do bà Chi vi phạm nghĩa vụ của chủ hụi nên theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận. Buộc bà H N C(Cẩm Tú) có trách nhiệm trả cho bà Ng T N số tiền là 8.000.000 đồng là phù hợp.

[3] Về lãi suất: Bà Ng T N xin rút yêu cầu, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, việc nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu tính lãi là tự nguyện nên Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu tiền lãi là phù hợp.

[4] Qua phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật về quan điểm giải quyết vụ án nên được chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà H N C(Cẩm Tú) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 400.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 227; khoản 2 Điều 219; 244; Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471 và Điều 357 ; 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9 và Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng T N đối với bà H N C(Cẩm Tú).

Buộc bà H N C(Cẩm Tú) có trách nhiệm trả cho bà Ng T N số tiền 8.000.000 (hai mươi bảy triệu) đồng.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Ng T N về tiền lãi suất phát sinh trên số tiền 8.000.000 đồng đối với bà Huỳnh Ngọc Chi.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Bà H N Cphải chịu 400.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3.2. Bà Ng T N là người cao tuổi nên được miễn án tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng được sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật thi hành.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 119/2022/DS-ST

Số hiệu:119/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về