TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 113/2022/DS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 212/2022/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2022 về tranh chấp “hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 469/2022/QĐXX-ST ngày 09 tháng 8 năm 2022, giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Tống Thị Phương L, sinh năm 1963; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn K, sinh năm 1961; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Võ Thị T, sinh năm 1958; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3.2. Chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T), sinh năm 1979; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3.3. Ông Lê Văn L, sinh năm 1963; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có đơn xin vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn trình bày: Do là người cùng địa phương nên bà có tham gia chơi 3 dây hụi do ông Huỳnh Văn K làm chủ hụi bà là hụi viên như sau.
Dây thứ 1: hụi 2.000.000đồng bắt đầu khui ngày 20/01âl/2019 gồm 24 thành viên, bà tham gia 01 chân, mỗi tháng khui 1 lần, bà đã chầu đủ 23 lần đến lần thứ 24, bà hốt lần cuối đươc 46.000.000đồng, trừ huê hồng 1.000.000đồng, còn lại 45.000.000đ, ông K đã giao 25.000.000đồng, còn thiếu 20.000.000đồng, bà là người trực tiếp chơi hụi và chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “cô 3 Le”.
Dây thứ 2: hụi 2.000.000đồng bắt đầu khui ngày 12/4âl/2019 gồm 24 thành viên, bà tham gia 01 chân, mỗi tháng khui 1 lần, bà đã chầu đủ 20 lần là 40.000.000đồng, đến lần thứ 21 thì ngưng không khui nữa, nên ông K còn thiếu bà 40.000.000đồng, bà là người trực tiếp chơi hụi và chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “cô 3 Le” Dây thứ 3: hụi 2.000.000đồng bắt đầu khui ngày 26/02âl/2020 gồm 24 thành viên, bà tham gia 01 chân, mỗi tháng khui 1 lần, bà đã chầu được 10 lần là 20.000.000đồng, đến lần thứ 11 thì ngưng không khui nữa, nên ông K còn thiếu bà 20.000.000đồng, bà là người trực tiếp chơi hụi và chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “cô 3 Le” Tổng cộng 03 dây hụi ông K còn nợ bà 80.000.000đồng.
Trong thời gian chơi hụi, ông K là chủ hụi bà T là vợ ông K cùng chung sống, làm ăn chung với ông K, Chi (Tú) là con gái ông cùng đi gom hụi nên nay bà yêu cầu ông Huỳnh Văn K, bà Võ Thị T, Huỳnh Ngọc C (Cẩm T) có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 80.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn L chồng của bà L thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của bà L đồng thời xin vắng mặt khi Tòa án xét xử.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 công nhận hợp đồng góp hụi và chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn có nơi cư ngụ tại xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại các Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.
Tại phiên tòa nguyên đơn rút lại yêu cầu tính lãi đối với số tiền 80.000.000đ và yêu cầu chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T) có nghĩa vụ liên đới cùng với ông K bà T trả số tiền 80.000.000đồng. Yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp nghĩ nên chấp nhận.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông K, bà T liên đới trả số tiền hụi còn thiếu là 80.000.000đồng. Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là các giấy hụi 2.000.000đ ngày 20/01âl/2019, ngày 12/4âl/2019, ngày 26/02âl/2020. Biên bản hòa giải của Ban ấp Bình Phú, xã Bình Phước Xuân ngày 18/01/2021 nội dung bà T hẹn khi bán được nhà đất sẽ trả tiền hụi cho bà L. Ngoài ra còn các lời khai của người làm chứng bà Phan Thị M, bà Trần Thị Đ, anh Trần Văn M là những người cùng tham gia chơi trong các dây hụi do ông K làm chủ đều xác định bà L có cùng tham gia chơi hụi chung sau đó thì hụi bị ngưng. Quá trình giải quyết Tòa án đã tống đạt các thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng phía ông K, bà T vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ có cơ sở xác định giữa bà L và ông K có xác lập hợp đồng góp hụi với nhau hụi do ông K làm chủ, bà L là hụi viên giấy hụi ghi tên ba Le. Cụ thể hụi hụi 2.000.000đồng ngày 20/01âl/2019 gồm 24 thành viên, bà L tham gia 01 phần bà đã đóng đủ 23 lần đến lần thứ 24, hốt lần cuối đươc 46.000.000đồng, trừ huê hồng 1.000.000đồng, còn lại 45.000.000đ, ông K đã giao 25.000.000đồng, còn thiếu 20.000.000đồng; hụi 2.000.000đồng bắt đầu khui ngày 12/4âl/2019 gồm 24 thành viên, bà L tham gia 01 chân, đã chầu đủ 20 lần là 40.000.000đồng, đến lần thứ 21 thì ngưng không khui nữa, nên ông K còn thiếu bà 40.000.000đồng; hụi 2.000.000đồng bắt đầu khui ngày 26/02âl/2020 gồm 24 thành viên, bà L tham gia 01 chân, đã chầu được 10 lần là 20.000.000đồng, đến lần thứ 11 thì ngưng không khui nữa, nên ông K còn thiếu bà 20.000.000đồng. Tổng cộng 3 dây hụi ông K còn thiếu là 80.000.000đồng. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả số tiền hụi còn nợ 80.000.000đồng là có cơ sở phù hợp với Điều 29 Nghị định 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường nên được chấp nhận.
[2.2] Về trách nhiệm trả nợ nguyên đơn yêu cầu ông K bà T liên đới trả số nợ trên. Xét thấy ông K và bà T có quan hệ vợ chồng và hôn nhân vẫn còn tồn tại, việc ông K mở nhiều dây hụi rất nhiều người đến giao nhận tiền với ông K bà T không có ý kiến phản đối với các giao dịch liên quan đến hoạt kinh tế gia đình của ông K do đó bà T phải chịu trách nhiệm liên đới với ông K để trả số nợ trên cho bà L.
[2.3] Đối với chị Huỳnh Ngọc C là con của ông K và bà T nguyên đơn không yêu cầu liên đới thực hiện nghĩa vụ nên hội đồng xét xử không xem xét đến.
[3] Về án phí DSSt: ông K, bà T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 15, 29 Nghị định 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Công nhận hợp đồng góp hụi giữa bà Tống Thị Phương L với ông Huỳnh Văn K.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tống Thị Phương L.
Buộc ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Tống Thị Phương L số tiền 80.000.000đồng.
Đình chỉ yêu cầu của bà Tống Thị Phương L yêu cầu chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T) liên đới cùng với ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T trả số tiền trên.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Tống Thị Phương L yêu cầu tính lãi đối với số tiền 80.000.000đ.
Án phí DSST: ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T phải chịu là 2.592.500đ.
Bà Tống Thị Phương L được nhận lại số tiền tạm ứng đã nộp là 2.000.000đ theo biên lai thu số 0004825 ngày 01/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 113/2022/DS-ST
Số hiệu: | 113/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về