TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 110/2022/DS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2022/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2022 về tranh chấp “hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 468/2022/QĐXX-ST ngày 9 tháng 8 năm 2022, giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị L, sinh năm 1948; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Ủy quyền cho chị Phan Thị T, sinh năm 1978. cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn K, sinh năm 1961; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Võ Thị T1, sinh năm 1958; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3.2. Chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T2), sinh năm 1979; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
3.3. Ông Dương Văn I, sinh năm 1948; cư trú: ấp BP, xã BPX, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có yêu cầu vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn trình bày: Do là người cùng địa phương nên bà có tham gia chơi 2 dây hụi do ông Huỳnh Văn K làm chủ hụi bà là hụi viên như sau.
Dây thứ nhất: hụi 1.000.000đồng bắt đầu khui ngày 09/6âl/2019 gồm 25 thành viên, bà tham gia 02 chân, mỗi tháng khui 1 lần, bà đã chầu 02 chân, mỗi chân được 17 lần đến lần thứ 18, bà bỏ hụi hốt 01 chân được 21.550.000đồng, trừ huê hồng 500.000đồng, còn 21.050.000đồng, chủ hụi giao được 4.200.000đồng, ông K còn nợ phần hụi bà hốt 16.850.000đồng, còn 01 chân là 18.000.000đồng, dây hụi này ông K còn thiếu bà 34.850.000đồng, bà là người trực tiếp chơi hụi và chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “chị Phước, bác 3”. Dây hụi này có 4 Huyện (Huỳnh Thị Thu Kiều), vợ Bình (Phạm Hoài Như) cùng tham gia.
Dây thứ 2: hụi 1.000.000đồng bắt đầu khui ngày 10/5âl/2019 gồm 21 thành viên, bà tham gia 02 chân, mỗi tháng khui 1 lần, bà đã chầu 02 chân, mỗi chân được 18 lần, bà bỏ hụi hốt 01 chân được 19.300.000đồng, trừ huê hồng 500.000đồng, còn 18.800.000đồng, còn 01 chân hụi sống chầu được 19 lần là 19.000.000đồng, trừ 02 chân hụi chết của chân hụi hốt còn lại 17.000.000đồng, ông K còn thiếu là 17.000.000đồng, bà là người trực tiếp chơi hụi và chầu hụi, trong giấy hụi ghi tên “3 Ịch”. Dây hụi này có Chị Linh, 4 Huyện (Huỳnh Thị Thu Kiều), chị Nhữ (Lê Cẩm Nhung) Trong thời gian chơi hụi, ông K là chủ hụi bà T1 là vợ ông K cùng chung sống, làm ăn chung với ông K, Chi (Tú) là con gái ông cùng đi gom hụi nên nay bà yêu cầu ông Huỳnh Văn K, bà Võ Thị T1, Huỳnh Ngọc C (Cẩm T2) có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 51.850.000đồng, yêu cầu tính lãi theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn I là chồng của bà L thống nhất theo yêu cầu khởi kiện của bà L đồng thời xin vắng mặt khi Tòa án xét xử.
Bị đơn ông Huỳnh Văn K, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T1, chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T2) vắng mặt không có lý do và không gởi ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị hội đồng xét xử áp dụng đĐiều 471 Bộ luật dân sự năm 2015 công nhận hợp đồng góp hụi và chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn có nơi cư ngụ tại xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại các Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.
Tại phiên tòa nguyên đơn rút lại yêu cầu tính lãi đối với số tiền 51.850.000đ và không yêu cầu chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T2) có nghĩa vụ liên đới cùng với ông K bà T1 trả số tiền 51.850.000đồng. Yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp nghĩ nên chấp nhận.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông K, bà T1 liên đới trả số tiền hụi còn thiếu là 51.850.000đồng. Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là các giấy hụi 1.000.000đ ngày 10/5âl/2019 và 9/6âl/2019. Ngoài ra còn các lời khai của người làm chứng chị Huỳnh Thị Thu Kiều, Phạm Hoài Như là những người cùng tham gia chơi trong các dây hụi do ông K làm chủ đều xác định bà L có cùng tham gia chơi hụi chung do ông K làm chủ sau đó thì hụi bị ngưng. Quá trình giải quyết Tòa án đã tống đạt các thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng phía ông K, bà T1 vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ có cơ sở xác định giữa bà L và ông K có xác lập họp đồng góp hụi với nhau hụi do ông K làm chủ, bà L là hụi viên giấy hụi ghi tên ba Ịch. Cụ thể hụi 1.000.000đ 10/5âl/2019 gồm 25 phần, bà L tham gia 02 phần, hụi khui đến lần thứ 18, bà L bỏ hụi hốt 01 chân được 21.550.000đồng, trừ huê hồng 500.000đồng, còn 21.050.000đồng, ông K giao được 4.200.000đồng, còn nợ phần hụi bà hốt 16.850.000đồng, còn 01 chân là 18.000.000đồng, dây hụi này ông K còn thiếu bà 34.850.000đồng; dây hụi ngày 9/6âl/2019 gồm 21 phần, bà L tham gia 02 chân, mỗi tháng khui 1 lần, đã chầu được 18 lần, bà bỏ hụi hốt 01 chân được 19.300.000đồng, trừ huê hồng 500.000đồng, còn 18.800.000đồng đã nhận tiền xong, còn 01 chân hụi sống chầu được 19 lần là 19.000.000đồng, trừ 02 chân hụi chết của chân hụi hốt còn lại 17.000.000đồng, ông K còn thiếu là 17.000.000đồng. Tổng cộng 2 dây hụi ông K còn thiếu là 51.850.000đồng.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả số tiền hụi còn nợ 51.850.000đồng là có cơ sở phù hợp với Điều 29 Nghị định 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường nên được chấp nhận.
[2.2] Về trách nhiệm trả nợ nguyên đơn yêu cầu ông K bà T1 liên đới trả số nợ trên. Xét thấy ông K và bà T1 có quan hệ vợ chồng và hôn nhân vẫn còn tồn tại, việc ông K mở nhiều dây hụi rất nhiều người đến giao nhận tiền với ông K bà T1 không có ý kiến phản đối với các giao dịch liên quan đến hoạt kinh tế gia đình của ông K do đó bà T1 phải chịu trách nhiệm liên đới với ông K để trả số nợ trên cho bà L.
[2.3] Đối với chị Huỳnh Ngọc C là con của ông K và bà T1 nguyên đơn không yêu cầu liên đới thực hiện nghĩa vụ nên hội đồng xét xử không xem xét đến.
[3] Về án phí DSSt: ông K, bà T1 phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 15, 29 Nghị định 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Công nhận hợp đồng góp hụi giữa bà Phan Thị L với ông Huỳnh Văn K.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị L.
Buộc ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T1 có trách nhiệm liên đới trả cho bà Phan Thị L số tiền 51.850.000đồng.
Đình chỉ yêu cầu của bà Phan Thị L yêu cầu chị Huỳnh Ngọc C (Cẩm T2) liên đới cùng với ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T1 trả số tiền trên.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị L yêu cầu tính lãi đối với số tiền 51.850.000đ.
Án phí DSST: ông Huỳnh Văn K và bà Võ Thị T1 phải chịu là 2.592.500đ.
Bà Phan Thị L không phải chịu án phí.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 110/2022/DS-ST
Số hiệu: | 110/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về