TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 131/2023/DS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC
Trong các ngày 28 và 29 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 273/2023/TLST-DS ngày 24 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 266a/2023/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguvễn Quang K, sinh năm 1980 (có mặt);
Địa chỉ: Số C, đường P, khóm C, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: Bà Thạch Thị Sa P, sinh năm 1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số B, đường P, khóm C, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Thạch Thị Sa P1, sinh năm 1966 (có mặt).
Địa chỉ: Số A, Kênh H, đường S, khóm G, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
+ Ông Danh Huỳnh N, sinh năm 1975 (có mặt).
Địa chỉ: Số B, đường P, khóm C, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 13 tháng 7 năm 2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Quang K trình bày:
Vào ngày 30 tháng 11 năm 2022, ông K và bà Thạch Thị Sa P có ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc”, với nội dung ông K mua của bà Sa P căn nhà, đất tọa lạc tại số B đường P, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 268405, thửa số: 404, tờ bản đồ 42, diện tích đất: 119,7m2) với số tiền là: 800.000.000 đồng và đặt cọc tiền mua nhà, đất với số tiền là 60.000.000 đồng.
Tuy nhiên, do bà Thạch Thị Sa P không có số tài khoản Ngân hàng nên bà Thạch Thị Sa P đã yêu cầu ông K chuyển tiền qua cho chị ruột bà P là bà Thạch Thị Sa P1.
Khi ông K và bà Sa P ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” thì ông K biết căn nhà, đất tọa lạc tại số B đường P, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng đang thế chấp tại Ngân hàng (do bà Sa P1 và bà Sa P nói cho ông biết) nhưng không nói là thế chấp tại ngân hàng nào.
Ông K chỉ thấy bản phô tô Giấv chứng nhận quyền sử dụng đất, ông biết phần nhà đất này được cấp cho ông Danh Huỳnh N và bà Thạch Thị Sa P đứng tên.
Bà P cam kết khi ra công chứng thì hai vợ chồng bà sẽ đồng ý ký tên và nhận tiền tại phòng công chứng.
Nhưng đến nay, bà Thạch Thị Sa P không làm thủ tục chuyển nhượng cho ông mà cố tình trốn tránh, cũng không trả lại tiền đặt cọc, tiền bồi thường.
Nguyên đơn ông K yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Thạch Thị Sa P trả lại cho ông số tiền đặt cọc là 60.000.000 đồng cũng như tiền phạt bồi thường vi phạm hợp đồng đặt cọc số tiền 60.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là: 120.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, phía nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, chỉ yêu cầu bà Thạch Thị Sa P trả lại cho ông số tiền đặt cọc là 60.000.000 đồng. Không yêu cầu bà Sa P trả tiền phạt bồi thường vi phạm là 60.000.000 đồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Thạch Thị Sa P trình bày:
Phần đất mà bà P thỏa thuận chuyển nhượng cho ông K có nguồn gốc trước đây là của bà Lưu Thị K1 và ông Phan Văn K2, cùng cư ngụ tại số A N, khóm C, phường C, Sóc Trăng được UBND Thành phố S (thị xã S cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 268405 ngày 19/10/2005 đối với thửa đất số 404, tờ bản đồ số 42, diện tích 119,7m2. Ngày 18/11/2009 bà P và chồng là ông Danh Huỳnh N đã nhận chuyển nhượng phần đất này và được UBND phường B công chứng, chứng thực. Ngày 03/12/2009 thì đã được chỉnh lý biến động sang tên chủ sử dụng đất cho hai vợ chồng bà Thạch Thị Sa P và ông Danh Huỳnh Na.
Bà P thừa nhận có thỏa thuận với ông Nguyễn Quang K là bà bán căn nhà gắn với quyền sử dụng thửa đất nêu trên với giá 1.000.000.000 đồng, thì ông Nguyễn Quang K liên hệ rồi có thỏa thuận với giá là 800.000.000 đồng, bà cũng đồng ý bán với giá 800.000.000 đồng. Vào ngày 30/11/2022, ông Nguyễn Quang K có kêu bà lại nhà bà Thạch Thị Sa P1 là chị bà P, rồi yêu cầu bà P ký tên vào giấy viết tay do ông viết sẵn để thỏa thuận bán nhà, đất và nhận tiền đặt cọc 60.000.000 đồng.
Khi bà P ký tên xong thì ông K không đưa số tiền đặt cọc này cho bà mà lại tự ý chuyển số tiền đặt cọc 60.000.000 đồng vào tài khoản bà Thạch Thị Sa P1 mà không hề trao đổi hay thỏa thuận gì với bà P.
Khi ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” thì bà P1 yêu cầu bà P không được cho chồng bà biết. Bà P cũng có báo cho ông K biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần tài sản trên bà P đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP P2 để vay số tiền 30.000.000 đồng. Sau khi ký giấy đặt cọc thì đến ngày 02/12/2022 bà P1 chở bà P ra Ngân hàng TMCP P2, bà P1 rút và trả tiền cho khoản nợ của bà P và lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà P. Số tiền bà P1 trả cho Ngân hàng là 12.859.000 đồng. Sau khi Ngân hàng trả lại giấy đất thì bà P1 giữ Giấy và yêu cầu vợ chồng bà P ký giấy biên nhận nợ với bà P1 số tiền 13.000.000 đồng. Giấy biên nhận ngày 28/3/2023 thì vợ chồng bà P đã trả đủ cho bà P1 số tiền 13.000.000 đồng. Cùng ngày 28/3/2023 thì bà P1 đã trả lại cho vợ chồng bà G chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vào ngày 11/12/2022 thì ông K gởi giấy báo cho hai vợ chồng bà P yêu cầu ra Công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng, thì bà P có ra ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng chồng bà là ông N không đồng ý ký tên.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông K thi bà P không đồng ý. Vì bà không có nhận số tiền đặt cọc là 60.000.000 đồng từ ông K hay bà P1.
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thạch Thị Sa P1 trình bày:
Ông Nguyễn Quang K có chuyển khoản số tiền đặt cọc 60.000.000 đồng cho bà Thạch Thị Sa P qua số tài khoản Ngân hàng của bà P1 và sau đó bà P1 cùng với bà P trực tiếp đi đến Cây ATM của Ngân hàng rút số tiền 60.000.000 đồng đưa cho bà P ngay trong ngày 30/11/2022, khi nhận 60.000.000 đồng bà P1 đưa thì bà P cùng con gái tên N1 và bà P1 vào Ngân hàng V chi nhánh S và bà P chuyển khoản số tiền 60.000.000 đồng cho Công ty N2 ở Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 17 giờ ngày 30/11/2022.
Nay bà P nói không có nhận số tiền đặt cọc 60.000.000 đồng của ông K là không đúng sự thật.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà P1 không có ý kiến. Vì bà P1 đã đưa đủ cho bà P số tiền 60.000.000 đồng mà ông K chuyển qua số tài khoản ngân hàng của bà.
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh Huỳnh N trình bày:
Ông N không biết giữa ông K và bà P ký giấy đặt cọc và cũng không có nhận khoản tiền nào. Ông N chỉ biết khi ông K kêu ông ra công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng thì ông không đồng ý.
Số tiền 13.000.000 đồng mà vợ chồng ông N nợ bà P1 theo biên nhận ngày 28/3/2023 thì đây là khoản tiền bà P1 trả thay cho vợ chồng ông N để chuộc giấy đất trong Ngân hàng. Vợ chồng ông N đã trả xong cho bà P1 và bà P1 đã trả lại cho vợ chồng ông Na G1 chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với yêu cầu của ông K thì ông N không đồng ý vì đây là tài sản chung của vợ chồng ông và ông cũng không có ký giấy tờ mua bán với ông K.
Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trình tự, thủ tục tố tụng. Đối với những người tham gia tố tụng thì trước và tại phiên tòa hôm nay chấp hành đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm Hội đồng xét xử, thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục tại phiên tòa.
Về nội dung, Vị đại diện Viện kiểm sát nêu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn ông Nguyễn Quang K khởi kiện yêu cầu bà Thạch Thị Sa P trả lại số tiền đã nhận cọc. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng đặt cọc theo quy định tại Điều 328 Bộ luật dân sự. Bị đơn cư trú tại thành phố S nên căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng.
[2] Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, là không yêu cầu bị đơn phải trả tiền phạt cọc là 60.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy việc nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện và việc thay đổi này không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện cho nên căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc Buộc bà Thạch Thị Sa P trả lại cho ông số tiền đặt cọc là 60.000.000 đồng.
Theo nội dung tại “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” đề ngày 30/11/2022 giữa bên đặt cọc ông Nguyễn Quang K với bên nhận tiền đặt cọc bà Thạch Thị Sa P và bà Thạch Thị Sa P1 thì ông K đặt cọc cho bà P số tiền 60.000.000 đồng để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với tài sản thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H5642 do UBND thị xã S cấp ngày 19/10/2005. Sau khi nhận tiền đặt cọc thì ông K và bà P tiến hành ra công chứng làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông K. Bà P có trách nhiệm giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K và ông K sẽ giao cho bà P số tiền 100.000.000 đồng, số tiền còn lại sẽ thanh toán hết khi bà P bàn giao toàn bộ nhà và đất.
Tuy nhiên, xét về chủ thể ký kết “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” đề ngày 30/11/2022. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các bên đều thừa nhận phần đất mà các bên thỏa thuận đặt cọc để chuyển nhượng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ cấp GCNQSD đất số: H5642 do U (nay là thành phố) Sóc Trăng cấp ngày 19/10/2005 cho bà Lưu Thị K1 và ông Phan Văn K2, đến ngày 03/12/2009 đã chỉnh lý biến động sang tên bà Thạch Thị Sa P và ông D Huỳnh Na. Nhưng khi các bên ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” thì ông N không biết và các bên cũng không thông báo cho ông N biết. Cũng như không thỏa thuận về nghĩa vụ của bên nhận đặt cọc là bà P phải cam kết cùng ông N ký hợp đồng chuyển nhượng với ông K.
Do đó, đến thời điểm các bên ra Văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông N không đồng ý nên không thể thực hiện được việc ký hợp đồng chuyển nhượng như đã thỏa thuận trong “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” đề ngày 30/11/2022.
Đồng thời, tại thời điểm các bên ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc”, các bên đều thừa nhận đều biết phần đất mà các bên đặt cọc để chuyển nhượng đang được thế chấp tại ngân hàng để vay vốn. Nhưng lại thỏa thuận “sau khi nhận tiền đặt cọc thì ông K và bà P tiến hành ra công chứng làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Ông K. Bà P có trách nhiệm giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K và ông K sẽ giao cho bà P số tiền 100.000.000 đồng” mà không thỏa thuận trong thời hạn bao lâu thì bà P phải có nghĩa vụ thanh toán tiền vay để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không thông báo cho phía Ngân hàng biết về việc các bên ký hợp đồng đặt cọc để thỏa thuận chuyển nhượng phần đất đang được thế chấp.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.
Tuy nhiên, tại “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” các bên không thỏa thuận cụ thể về thời hạn để các bên ra công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật về đặt cọc.
[4] Như vậy, việc hai bên không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng là do hai bên không thỏa thuận cụ thể tại “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và không thỏa thuận thời hạn cụ thể để thực hiện việc ra Văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cũng không thông báo cho chủ sử dụng đất là ông Na b và ông N cũng không đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do hai bên đều có lỗi nên bên nhận tiền cọc phải có nghĩa vụ trả lại cho bên đặt cọc.
[5] Trong quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà P1 đều thừa nhận, mặc dù bà P1 ký tên trong “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” ở Bên B (bên nhận cọc). Tuy nhiên, bà P1 chỉ là người giới thiệu cho bà P và ông K thỏa thuận chuyển nhượng đất và bà P1 chỉ là người chứng kiến việc mua bán đất giữa ông K và bà P. Nên có căn cứ xác định bên đặt cọc là ông K và bên nhận tiền cọc là bà P.
[6] Về việc giao nhận số tiền cọc là 60.000.000 đồng. Thấy rằng, bà P, bà P1 và ông K đều thừa nhận ngay sau khi ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” thì ông K chuyển cho bà P1 số tiền 60.000.000 đồng. Theo như ông K và bà P1 trình bày thì do tại thời điểm đó ông K không có đem theo tiền mặt và bà P cũng không có tài khoản Ngân hàng nên mới chuyển nhờ qua tài khoản của bà P1.
Đồng thời tại thời điểm chuyển tiền thì bà P thừa nhận bà có biết và cũng không có ý kiến phản đối và bà P cũng thừa nhận ngay sau khi ông K chuyển tiền thì bà P1 chở bà P đến cây ATM để rút số tiền 60.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà P không thừa nhận bà có nhận từ bà P1 số tiền 60.000.000 đồng.
Xét thấy, mặc dù bà P không thừa nhận bà có nhận số tiền đặt cọc 60.000.000 đồng. Tuy nhiên bà P thừa nhận bà biết việc ông K chuyển số tiền đặt cọc mua đất của qua tài khoản của bà P1 và bà P cũng thừa nhận sau khi trong tài khoản của bà P1 có số tiền 60.000.000 đồng do ông K chuyển qua thì bà cùng bà P1 đến cây ATM để bà P1 rút tiền. Bà P cho rằng lý do bà không yêu cầu bà P1 giao cho bà số tiền 60.000.000 đồng là do bà P1 sử dụng yếu tố tâm linh để bà không nói được và cũng không phản kháng được mà chỉ biết làm theo yêu cầu của bà P1. Lời trình bày của bà P là hoàn toàn không có căn cứ và không phù hợp với thực tế.
Mặt khác, bà P thừa nhận sau khi các bên ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” khoảng 02 ngày sau thì bà cùng bà P1 đến Ngân hàng TMCP P2 để trả tiền vay và giải chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với mục đích là để chuyển nhượng cho ông K. Sau đó khoảng 10 ngày thì chính bà P cùng chồng là ông N tự nguyện đến Văn phòng C để ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông K như đã thỏa thuận trong “Giấy biên nhận tiền đặt cọc”, mặc dù do ông N không đồng ý ký tên nhưng bà P thừa nhận bà tự nguyện ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Như vậy, mặc dù giữa bà P và bà P1 không có biên nhận thể hiện bà P1 giao cho bà P số tiền 60.000.000 đồng. Nhưng từ ý chí của bà P về việc ký “Giấy biên nhận tiền đặt cọc” và ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông K đủ căn cứ để xác định bà P đã nhận số tiền 60.000.000 đồng.
Do bà P đã nhận tiền đặt cọc 60.000.000 đồng nên bà P phải có nghĩa vụ trả lại cho ông K số tiền này.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận số tiền là 60.000.000 đồng x 5% = 3.000.000 đồng.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ: Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ: Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Quang K. Buộc bị đơn bà Thạch Thị Sa P trả cho nguyên đơn ông K số tiền cọc đã nhận là 60.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bị đơn bà Thạch Thị Sa P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 3.000.000 đồng.
- Nguyên đơn ông Nguyễn Quang K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông K số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0009563 ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng.
3. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung).
Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 131/2023/DS-ST
Số hiệu: | 131/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về