Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 19/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 19/2021/DS-PT NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 31 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 81/2020/TLPT-DS ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2020/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Phú Yên bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 173/2020/QĐ-PT ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1974; Địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: bà Trần Thị Như T1 – Luật sư Văn phòng luật sư D thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; Địa chỉ: 112 đường N, Phường 5, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2. Bị đơn: Vợ chồng ông Đỗ Văn T (Tr1), sinh năm 1969, bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1972; Cùng địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Nguyễn Thị T2: ông Trần Danh T3 – Luật sư Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên; Địa chỉ: 73 đường P, thị trấn T, huyện A, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vợ chồng ông Đỗ Tr, sinh năm 1943, bà Phạm Thị L, sinh năm 1944; Cùng địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Lê Văn L1, sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn T, xã ANT, huyện An, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị P và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thống nhất trình bày:

Ngày 11/3/2015, vợ chồng bà Nguyễn Thị T2, ông Đỗ Văn T (Tr, T4) chuyển nhượng cho bà P diện tích đất 60m2 (chiều dài 12m, rộng 05m), tọa lạc tại Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên, có vị trí tứ cận: Đông giáp đất bà Nguyễn Thị T2, Tây và Nam giáp đất Uỷ ban nhân dân xã C, Bắc giáp đường liên thôn, giá chuyển nhượng là 80.000.000 đồng, thời điểm chuyển nhượng có lập giấy tay kèm theo, nhưng chưa được công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, bà T2. Sau khi nhận chuyển nhượng, bà P sử dụng đất này và xây dựng nhà ở đến nay, không ai tranh chấp. Để đảm bảo các thủ tục, nhiều lần bà P yêu cầu vợ chồng bà T2, ông T làm thủ tục tách thửa cho bà P đứng tên quyền sử dụng đất nhưng vợ chồng bà T2, ông T không thực hiện. Hợp đồng này có hiệu lực vì đã thực hiện xong, vợ chồng ông T, bà T2 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông T, ông Tr, bà L biết việc bà P xây nhà nhưng không có ý kiến gì là mặc nhiên đồng ý. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng án lệ số 04 của Tòa án nhân dân tối cao, công nhận Giấy chuyển nhượng ngày 11/3/2015 có hiệu lực, công nhận diện tích đất đang tranh chấp thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà P, buộc vợ chồng ông T, bà T2 làm thủ tục tách thửa cho bà P. Về định giá tài sản: Để xem xét hợp đồng vô hiệu phải căn cứ giá thị trường.

Bị đơn vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Nguyễn Thị T2; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị T2 và người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Lê Văn L1 trình bày:

Năm 2012, vợ chồng ông Tr, bà L có cho tạm vợ chồng bà T2, ông T một diện tích đất, tọa lạc tại Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên. Thời điểm này bà T2 có mượn của bà P số tiền 60.000.000 đồng để làm ăn, nhiều lần bà P đòi nợ nhưng bà T2 không có khả năng trả nợ, từ đó bà P yêu cầu bà T2 phải chuyển nhượng đất để khấu trừ nợ. Do túng quẫn nên bà T2 lấy diện tích đất của vợ chồng ông Tr, bà L chuyển nhượng cho bà P với diện tích đất 5 x 12 = 60m2 với giá là 80.000.000đ, hai bên có lập giấy tay kèm theo ngày 11/3/2014, nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Nay phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng và làm các thủ tục tách thửa cho phía nguyên đơn thì bà T2, ông T và ông Tr, bà L không đồng ý. Bởi lẽ diện tích đất mà bà T2 chuyển nhượng là của vợ chồng ông Tr, bà L. Về nội dung và hình thức của hợp đồng chuyển nhượng chưa đảm bảo theo quy định, yêu cầu toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng nêu trên bị vô hiệu, phía bị đơn có nghĩa vụ bồi thường hậu quả của hợp đồng vô hiệu cho nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2020/DS-ST ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện A đã quyết định:

Căn cứ Điều 35; Điều 147; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 121, 122, 124, 127, 132, 134, 137, 401, 689, 692, 697, 698 của Bộ luật dân sự 2005; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Nguyễn Thị P. Hủy Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 11/3/2015. Buộc bà P trả lại 60m2 đất tại thửa 753, tờ bản đồ 19 tại địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên có giới cận: Đông giáp đất bà Nguyễn Thị T2, Tây và Nam giáp đất Uỷ ban nhân dân xã C, Bắc giáp đường liên thôn, cho vợ chồng ông T, bà T2. Giao ngôi nhà cấp 4 và các tài sản khác gồm: hàng rào và cổng sắt gắn liền thửa đất 753, tòa bản đồ 19 tại địa chỉ Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên cho vợ chồng ông T bà T2.

Buộc bà T2 phải trả cho bà P 105.000.000đ (Một trăm lẻ năm triệu đồng). Buộc vợ chồng ông T, bà T2 phải trả cho bà P số tiền 121.745.600đ (Một trăm hai mươi mốt triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn sáu trăm đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01/9/2020, nguyên đơn bà Nguyễn Thị P có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị HĐXX sửa án sơ thẩm, công nhận hiệu lực của Giấy chuyển nhượng đất cho bà P được quyền sử dụng đất và bị đơn phải tách thửa đất cho bà P vì thực tế vợ chồng ông Tr, bà L đã cho vợ chồng ông T, bà T2 đất từ thời điểm năm 2012 và đã hoàn tất việc tặng cho, đăng ký quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, bà T2 từ ngày 04/7/2016. Sau đó bà P đã xây dựng nhà trên đất nhận chuyển nhượng ở ổn định từ năm 2016 đến thời điểm bà P khởi kiện mà không ai trong gia đình ông T ngăn cản.

- Bị đơn vợ chồng ông Đỗ Văn T, bà Nguyễn Thị T2 và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Đỗ Tr, bà Phạm Thị L giữ nguyên lời trình bày.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng: thời điểm chuyển nhượng, đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Tr, bà L, việc bà T2 tự ý lấy đất của người khác chuyển nhượng là hoàn toàn sai trái, đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Ý kiến của kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa tiến hành tố tụng đúng pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P; sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào ý kiến các bên đương sự, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về nguồn gốc đất: Tại biên bản xác minh ngày 19/8/2020, Ủy ban nhân dân xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên cung cấp thông tin: thửa đất 145, tờ bản đồ 11, diện tích 895m2 (bản đồ 299), đo đạc năm 1993, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đỗ Tr theo Nghị định 64/CP. Năm 2012, thực hiện dự án cầu Long Phú, Hội đồng dự án đo đạc thực tế có diện tích 1.523,6m2, diện tích tăng thêm được xác định là do hộ ông Tr đã khai hoang thêm trong quá trình sử dụng đất. Sau khi bị thu hồi 968,1m2(lớn hơn diện tích theo GCNQSD đất), phần diện tích còn lại 555,5m2, ông Tr, bà L được UBND huyện A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB744850 ngày 16/4/2016 thể hiện là thửa 573, tờ bản đồ 19, diện tích 555,5m2 trong đó đất ở 100m2, đất HNK 455,5m2. Đến ngày 04/7/2016, vợ chồng ông Tr, bà L hoàn tất thủ tục tặng cho, đăng ký chỉnh lý sang tên cho vợ chồng ông T, bà T2 toàn bộ diện tích đất nêu trên.

[2]Xét về hiệu lực của Giấy chuyển nhượng đất đề ngày 11/3/2015:

Về hình thức của giao dịch: Quá trình giải quyết vụ án, bà P và bà T2 đều thống nhất có việc bà T2 chuyển nhượng diện tích đất 60m2 thuộc thửa 753, tờ bản đồ 19 tọa lạc tại Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên có giới cận: Đông giáp đất bà Nguyễn Thị T2, Tây và Nam giáp đất Uỷ ban nhân dân xã C, Bắc giáp đường liên thôn với giá 80.000.000đ, bà T2 đã nhận tiền, bà P đã nhận đất xây dựng nhà. Về hình thức của Hợp đồng chuyển nhượng; Tại Giấy này không có chữ ký của người nhận chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị P, ông T cho rằng mình không tham gia vào giao dịch, còn bà T2 cho rằng bà là người ký thay ông T, ông T đã có đơn yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết vào ngày 11/7/2019, đến ngày 22/7/2019 rút đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T khẳng định ông không tham gia ký giấy bán và đã được bà T2 thừa nhận nên ông cho rằng giám định chữ viết tên ông trên giấy bán là không cần thiết, bà P khẳng định ông T có tham gia, chính vợ chồng ông T đã cùng đo dây xác định diện tích và vị trí đất giao cho bà P xây nhà. Ngoài lời trình bày của đương sự thì không có tài liệu khác nên không có cơ sở xác định ông T không ký vào Giấy chuyển nhượng này. Việc chuyển nhượng đất giữa các bên bằng giấy tay, không có công chứng, chứng thực của chính quyền địa P và chưa được đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền là vi phạm về hình thức như cấp sơ thẩm đã nhận định.

Về chủ thể tham gia hợp đồng: Theo các tài liệu do UBND xã C cung cấp thấy rằng: Khi Nhà nước thu hồi đất, diện tích đất dư còn lại của thửa đất 145, tờ bản đồ 11 (bản đồ 299), đo đạc năm 1993 được địa P xác định nguồn gốc đất là do hộ ông Tr khai hoang (thời điểm giao đất theo Nghị định 64/CP thì vợ chồng ông T, bà T2 không còn là thành viên trong hộ), tại phiên tòa, bên bị đơn và người liên quan trình bày được cha mẹ cho tạm từ năm 2012 và thực tế vợ chồng bà T2, ông T sử dụng đất làm láng trại bán tạp hóa từ 2014 cho đến khi cất nhà ở vào năm 2016. Tại Tờ trình V/v cấp GCNQSD đất ngày 28/12/2015 (BL79), có nêu “Căn cứ Công văn số 99/UBND ngày 25/9/2015 của UBND huyện A V/v trả lời đơn kiến nghị của bà Nguyễn Thị T2, Công văn số 143/UBND ngày 25/11/2015 của UBND huyện A V/v trả lời đơn xin xem xét của bà Nguyễn Thị T2 và Thông báo số 504/TB-UBND ngày 07/12/2015 của UBND huyện A kết luận về việc xin cấp GCNQSD đất đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị T2; Căn cứ theo biên bản làm việc ngày 08/12/2015 của UBND xã về việc cấp GCNQSD đất cho hộ ông Đỗ Tr (con bà Nguyễn Thị T2)”, theo nội dung tại Thông báo số 504/TB-UBND ngày 07/12/2015 mà UBND xã C cung cấp kèm theo Công văn số 18/UBND ngày 26/02/2021, Giấy ủy quyền được UBND xã xác nhận ngày 02/7/2015 (bà T2 nộp tại Tòa) ghi “Nay vợ chồng tôi già yếu không thể lao động được nên vợ chồng tôi quyết định ủy quyền lại cho vợ chồng con trai có tên trên giải quyết các việc có liên quan về quyền lợi gia đình về việc đất đai đám đất có diện tích 555m, thửa số 145, thuộc tờ bản đồ số 11…”, thể hiện bà T2 có xin đăng ký quyền sử dụng đất cho hộ gia đình bà, địa phương xác định đất có nguồn gốc của vợ chồng ông Trừ nên không cấp giấy CNQSD đất cho hộ bà T2 mà hướng dẫn gia đình tiến hành các thủ tục để cấp GCNQSD đất cho vợ chồng ông Tr, bà L. Ngày 16/4/2016, vợ chồng ông Tr, bà L được UBND huyện A cấp GCNQSD đất thì đến ngày 04/7/2016 đã hoàn tất thủ tục tặng cho vợ chồng ông T, bà T2 toàn bộ quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa, ông T và ông L1 (đại diện của ông Tr, bà L) cho rằng khi thấy bà P làm móng xây nhà, ông T có đơn đề nghị xã ngăn chặn và đòi bà P phải trả lại đất, xã đã yêu cầu bà P dỡ công trình trả đất, bà P không dỡ và tiếp tục xây nhà lên, ha bên thường xuyên cãi nhau nhưng do mối quan hệ sui gia nên chờ xã giải quyết tiếp và hòa giải trong gia đình nên không có thêm đơn yêu cầu nào khác. Tại Biên bản xác minh ngày 06/7/2020, UBND xã C cung cấp thông tin: Ngày 25/10/2016, địa phương đã làm việc với vợ chồng bà T2, ông T với bà P về việc bà T2 cho rằng bà chuyển nhượng cho bà P đất màu, địa phương xác định bà P xây nhà trên đất màu và đất hành lang dẫn cầu Long Phú nên buộc tháo dỡ trả lại hiện trạng, tại Biên bản làm việc này có ghi nội dung “đề nghị bà T2, bà P phối hợp chuyển mục đích sử dụng đất trước khi xây dựng công trình” chứ không phải làm việc theo đơn của ông T cho rằng việc bà T2 chuyển nhượng đất của cha mẹ cho bà P là không đúng và đòi trả lại đất. Mặc khác, từ sau ngày 25/102016 đến thời điểm bà P khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng và tách thửa đất (ngày 24/01/2019) thì vợ chồng bà T2, ông T, vợ chồng ông Tr, bà L cũng không có đơn từ nào tranh chấp. Tại phiên tòa, bà T2 trình bày chỉ chuyển nhượng đất màu nhưng bà P yêu cầu tách thửa đất ở bà không đồng ý, nếu bà P vẫn ở và không đòi tách thửa thì bà đồng ý cho bà P tiếp tục ở và nói lý do đất cha mẹ tự ý bán là sai nên yêu cầu hủy hợp đồng. Như vậy, xét thấy tại thời điểm chuyển nhượng tuy vợ chồng bà T2, ông T chưa được quyền sử dụng đất nhưng đến thời điểm bà P xây dựng nhà trên đất nhận chuyển nhượng thì vợ chồng bà T2, ông T đã được công nhận quyền sử dụng đất, vợ chồng ông Tr, bà L đã có ý chí cho con từ thời điểm chưa được cấp Giấy CNQSD đất và sau khi được QSD đất đã hoàn tất thủ tục tặng cho con không kèm điều kiện gì trong hợp đồng tặng cho. Trong năm 2016, vợ chồng bà T2, ông T xây dựng nhà ở trên đất giáp với nhà bà P đang xây, vợ chồng ông Tr, bà L cũng ở cùng địa phương gần nơi ở của vợ chồng ông T, bà T2 cũng không ngăn cản, bà P đã ở trên đất nhận chuyển nhượng ổn định từ 2016 đến nay, việc bà P xây dựng nhà là phù hợp quy hoạch theo Biên bản xác minh ngày 06/7/2020 do UBND xã C cung cấp. Do đó, tuy Giấy chuyển nhượng ngày 11/3/2015 có vi phạm về hình thức, thời điểm chuyển nhượng bị đơn chưa là chủ sử dụng đất nhưng đến tháng 7/2016 đã được Nhà nước công nhận QSD đất và từ tháng 3/2015 đến thời điểm tranh chấp tháng 01/2019, nguyên đơn đã sử dụng đất nhận chuyển nhượng liên tục không ai tranh chấp, do đó cần công nhận hiệu lực thực tế của Giấy chuyển nhượng ngày 11/3/2015, bà P được quyền sử dụng diện tích đất 60m2 đất tại thửa 753, tờ bản đồ 19 tại địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên có giới cận: Đông giáp đất bà Nguyễn Thị T2, Tây và Nam giáp đất Uỷ ban nhân dân xã C, Bắc giáp đường liên thôn, buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị T2, ông Đỗ Văn T phải tiến hành các thủ tục tách thửa đất cho bà P đối với diện tích đất nói trên.

[3]Về chi phí tố tụng: Vợ chồng bà T2, ông T phải chịu toàn bộ chi phí định giá tài sản là 4.000.000đ ở sơ thẩm, bà P chịu chi phí định giá tại phúc thẩm là 5.000.000đ. Bà P đã nộp tạm ứng nên vợ chồng bà T2, ông T phải hoàn trả cho bà P 4.000.000đ.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P – Sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng Điều 35; Điều 147; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 121, 122, 124, 127, 132, 134, 137, 401, 689, 692, 697, 698 của Bộ luật dân sự 2005; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị P. Công nhận hiệu lực của Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 11/3/2015. Bà P được quyền sử dụng diện tích 60m2 đất tại thửa 753, tờ bản đồ 19 tại địa chỉ: Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên có giới cận: Đông giáp đất bà Nguyễn Thị T2, Tây và Nam giáp đất Uỷ ban nhân dân xã C, Bắc giáp đường liên thôn. Buộc vợ chồng ông T, bà T2 T hành các thủ tục tách thửa đất 753, tờ bản đồ 19 tại địa chỉ thôn Thôn P1, xã C, huyện A, tỉnh Phú Yên cho bà P đối với diện tích 60m2 nêu trên.

2.Về chi phí tố tụng: Vợ chồng bà T2, ông T phải hoàn trả cho bà P 4.000.000đ chi phí định giá tài sản.

3.Về án phí: Vợ chồng bà T2, ông T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị P số tiền 300.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm tại biên lai thu tiền ký hiệu AA/2015/0007545 ngày 25/02/2019 và 300.000đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu tiền số 0004407 ngày 11/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện A.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 19/2021/DS-PT

Số hiệu:19/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về