Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH 

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 23/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 123/2021/TLST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST- DS ngày 25 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngô Thị Bé S, sinh năm 1963 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: số 04, đường CMT8, KP II, phường 4, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1954 (có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).

2. Bà Đinh Thị Lệ TH, sinh năm 1958 (có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).

Cùng địa chỉ: số 4/23B, ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23 tháng 4 năm 2021, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Ngô Thị Bé S trình bày:

Bà Ngô Thị Bé S và vợ chồng ông Nguyễn Văn C, bà Định Thị Lệ TH không có quan hệ họ hàng. Hai bên có việc chuyển nhượng đất, cụ thể như sau:

Khoảng tháng 10/2019, có người giới thiệu bà S mua đất của ông C, bà TH; bà S có xuống đất của ông C, bà TH để xem đất, thỏa Thuận mua 50.000.000 đồng/01 mét ngang, bà S mua 06 mét ngang giá 300.000.000 đồng. Khi đi xem đất, ông C nói giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp vay tiền của Ngân hàng Nông nghiệp phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh Hòa Thành (sau đây gọi là Ngân hàng) số tiền 160.000.000 đồng. Để lấy bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra, bà S đưa trước cho ông C, bà TH số tiền 80.000.000 đồng, vợ chồng anh T (cũng là người mua đất) đưa trước 80.000.000 đồng để trả nợ Ngân hàng. Khi đi trả nợ tại Ngân hàng, có mặt vợ chồng ông C, bà S và anh T. Khi lấy bản chính giấy chứng nhận quyền sử đất thì anh T là người giữ, sau đó mới tiến hành đo đất để trích lục sơ đồ đất, cả bà S và anh T đều có chứng kiến việc đo đạc đất, anh T mua phần đất 07 mét ngang, còn bà S thì mua phần đất 06 mét ngang giáp với đất anh T, cụ thể theo trích lục chỉnh lý bản đồ địa chính thì phần đất của bà S có diện tích là 204,8 m2, Thuộc thửa 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, có tứ cận: Hướng Đông giáp đường 10 mét dài 06 mét, hướng Tây giáp thửa 682 của ông C dài 06 mét; hướng Bắc giáp thửa 698 của ông C dài 15,94 m + 18,83 m; hướng Nam giáp thửa 696 (phần đang làm thủ tục bán cho vợ chồng anh T) dài 16,10 m + 17,79 m. Đến ngày 19/12/2019, bà S, vợ chồng anh T, chị Tr và vợ chồng ông C, bà TH đi công chứng hợp đồng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Gia Thôn. Sau khi công chứng xong, bà S giao đủ tiền cho ông C, bà TH số tiền còn lại là 220.000.000 đồng là đủ 300.000.000 đồng, sau khi giao tiền thì ông C viết biên nhận tiền, bà S ký tên bên giao tiền, ông C, bà TH ký tên bên nhận tiền. Tuy nhiên, sau khi công chứng xong bà S, anh T, chị Tr và ông C, bà TH đem toàn bộ hồ sơ qua Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – chi nhánh Hòa Thành để làm thủ tục sang tên thì được trả lời là đất đang kê biên không thể làm thủ tục chuyển nhượng được. Anh T, chị Tr mới hỏi ông C thì ông C thừa nhận là đất đang bị kê biên. Sau đó, người đi làm giấy tờ dùm có đưa lại cho bà S giữ 20.000.000 đồng nên thực tế bà S chỉ trả cho ông C, bà TH số tiền 280.000.000 đồng.

Ngày 30/12/2019, bà S có đến nhà ông C, bà TH để yêu cầu làm thủ tục giao đất thì bà TH có nói với bà S là đưa thêm cho bà TH 5.000.000 đồng trong số tiền 20.000.000 đồng bà S còn giữ, sau này khi nào ông C, bà TH giao đất thì bà S chỉ phải trả thêm 15.000.000 đồng, bà S thấy hợp lý nên đã đưa thêm 5.000.000 đồng cho bà TH, việc giao nhận tiền có làm giấy biên nhận.

Đầu năm 2020, bà S có làm đơn yêu cầu Công an xã TrĐ giải quyết. Kết quả giải quyết ông C, bà TH đồng ý trả lại tiền cho bà S và hẹn 30 ngày sẽ trả. Nhưng đến hẹn ông C, bà TH vẫn không trả nên bà S mới khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, bà S yêu cầu ông C, bà TH phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 204,8 m2, thửa 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Trường hợp không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng được thì yêu cầu ông C, bà TH trả lại cho bà S số tiền đã nhận 285.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Nay, bà S thay đổi 01 phần yêu cầu khởi kiện, bà S chỉ yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S với vợ chồng ông C, bà TH ngày 19/12/2019, đối với phần đất diện tích 204,8 m2, thửa 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, huyện Hòa Thành (nay là thị xã Hòa Thành), tỉnh Tây Ninh, do đất này đang bị Chi cục Thi hành án thị xã Hòa Thành kê biên nên không làm thủ tục sang tên được. Bà S yêu cầu ông C, bà TH cùng có nghĩa vụ trả lại cho bà S số tiền đã nhận là 285.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi và không còn yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết, tại biên bản lấy lời khai ngày 23/6/2021, bị đơn bà Đinh Thị Lệ TH trình bày:

Thời gian nào không nhớ, bà TH ông C có nhờ người kêu bán đất, có người giới thiệu bà S xuống mua đất. Sau khi xem đất, thống nhất vợ chồng bà TH bán đất cho bà S với giá 50.000.000 đồng/mét ngang, 06 mét ngang giá 300.000.000 đồng. Bà S có đặt cọc trước cho bà TH 40.000.000 đồng, bà TH có nói với bà S bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp để tiền vay của Ngân hàng. Bà S nói khi nào làm thủ tục thì bà S đưa tiền lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra. Thời gian nào bà TH không nhớ chính xác, khi đến Ngân hàng trả nợ thì anh T và bà S đã đưa cho bà TH số tiền 160.000.000 đồng, bà TH không nhớ rõ mỗi người đưa bao nhiêu. Sau khi lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra thì anh T giữ, rồi nhờ người xuống đo đạc để xác định ranh, lúc đo đạc có anh T và bà S tham gia. Phần đất bà TH bán cho bà S là 06 mét ngang, theo trích lục bản đồ địa chính có diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, khi đo đạc xong thì cấm trụ xi măng làm ranh, hiện tại trụ xi măng vẫn còn.

Khi có sơ đồ đất, vợ chồng bà TH, vợ chồng anh T và bà S có đến Văn phòng công chứng Nguyễn G để công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi công chứng xong anh T, bà S giao tiền cho vợ chồng bà TH ông C, mỗi người giao tiền chừa lại 20.000.000 đồng, cu thể anh T giao 260.000.000 đồng, bà S giao 280.000.000 đồng, sau khi giao tiền xong thì có viết giấy nhận tiền, giấy nhận tiền do ông C viết, bà TH và ông C ký tên. Thực tế, trong giấy nhận tiền ông C ghi nhận đủ tiền nhưng mỗi người còn nợ lại ông C, bà TH 20.000.000 đồng (việc này do người làm giấy tờ dùm đề xuất), hẹn khi nào làm xong thủ tục cấp giấy thì đưa đủ.

Sau đó, vợ chồng bà TH đi về, bà S và anh T tự đi làm thủ tục sang tên. Mấy ngày sau, bà S và anh T đến nhà bà TH nói đất bị kê biên không làm giấy được. Lúc đó, bà TH, ông C mới biết đất bị kê biên chứ trước đó bà TH không nhận được gì từ cơ quan thi hành án. Bà TH, ông C có thiếu nợ từ năm 2009 nhưng không biết việc đất bị kê biên. Bà TH, ông C có hứa để trả tiền cho những người thiếu nợ tại cơ quan thi hành án rồi làm thủ tục sang tên cho bà S và anh T. Bà TH, ông C có thỏa Thuận với những người đang thiếu nợ bên thi hành án, họ đồng ý nếu bà TH, ông C trả cho họ 150.000.000 đồng thì họ rút đơn bên thi hành án để bà TH, ông C làm thủ tục chuyển nhượng cho bà S và anh T.

Tuy nhiên, do dịch bệnh nên bà TH, ông C chưa bán được đất nên chưa có tiền trả. Sau đó, anh T và bà S có yêu cầu Công an xã TrĐ giải quyết. Tại đây, hai bên thống nhất không tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nữa mà vợ chồng bà TH, ông C sẽ trả lại cho anh T số tiền đã nhận 250.000.000 đồng, trả lại cho bà S 280.000.000 đồng nhưng bà TH, ông C có hẹn khi nào bán đất được mới trả tiền. Cách đây một thời gian, bà TH, ông C chuẩn bị bán được đất, có điện thoại cho anh T và bà S nói sẽ trả tiền cho họ. Nhưng sau đó, bà TH bị bệnh nằm bệnh viện nên chưa bán đất được cho đến nay. Nên bà S và anh T mới khởi kiện bà TH, ông C tại Tòa án.

Nay đối với yêu cầu khởi kiện của bà S, bà TH đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên. Bà TH đồng ý trả lại cho bà S số tiền đã nhận là 280.000.000 đồng.

Bị đơn ông Nguyễn Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Toà án để làm việc, dự phiên họp, hoà giải và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hòa Thành trình bày:

Về thủ tục tố tụng:

Hội đồng xét xử và các bên đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn bà Ngô Thị Bé S, bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Lệ TH có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ là đúng quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Thẩm phán có vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự, kiến nghị khắc phục.

Về nội dung vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 123, 131, 500 Bộ luật Dân sự và Nghị quyết 326 về án phí, lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Bé S đối với ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị Lệ TH. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/12/2019 giữa bà S và ông C, bà TH vô hiệu. Buộc ông C, bà TH cùng có nghĩa vụ trả cho bà S số tiền 285.000.000 đồng. Ghi nhận bà S không yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu. Tính án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Ngô Thị Bé S; bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Lệ TH có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà S, ông C, bà TH là phù hợp quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo đơn khởi kiện bà S yêu cầu ông C, bà TH tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/11/2019 giữa bà S với ông C, bà TH đối với phần đất có diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được thì yêu cầu ông C, bà TH trả lại số tiền mua bán đất đã nhận là 300.000.000 đồng và trả tiền lãi theo lãi suất ngân hàng hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trong quá trình làm việc, bà S thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, bà S yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/11/2019 giữa bà S với ông C, bà TH, yêu cầu ông C bà TH cùng có nghĩa vụ trả lại cho bà S số tiền mua đất đã nhận là 285.000.000 đồng, ngoài ra, bà S không còn yêu cầu nào khác. Xét thấy, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của bà S không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nội dung vụ án:

[1]. Về quan hệ tranh chấp: Ngày 19/12/2019, bà Ngô Thị Bé S có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Lệ TH phần đất có diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn G, giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng. Bà S có đưa cho ông C bà TH số tiền 285.000.000 đồng, còn lại số tiền 15.000.000 đồng hẹn khi nào làm thủ tục cấp giấy xong thì đưa đủ. Nhưng sau đó, bà S không làm thủ tục sang tên được do phần đất ông C, bà TH chuyển nhượng cho bà S đã bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Thành (nay là thị xã Hòa Thành) kê biên nên hai bên phát sinh tranh chấp. Đây là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 500 Bộ luật Dân sự và khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Trong quá trình làm việc, bà S và bà TH thống nhất thừa nhận toàn bộ nội dung trong hợp đồng chuyển nhượng ngày 19/12/2019 giữa hai bên, có căn cứ khẳng định phần đất hai bên chuyển nhượng có diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng. Đây là các tình tiết sự kiện không phải chứng minh được quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Xét về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấy rằng: Hợp đồng thể hiện dưới hình thức văn bản được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn G tại số công chứng 10.521 quyển số 19 TP/CC – SCC/HĐGĐ ngày 19/12/2019 là phù hợp quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng được quy định tại Điều 502 Bộ luật Dân sự.

[4]. Xét về nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấy rằng: Theo hồ sơ do Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hòa Thành cung cấp thì ngày 22/6/2010, Chấp hành viên ra quyết định kê biên tài sản gồm nhà và đất của ông C, bà TH; lập biên bản kê biên đối với các thửa đất gồm 156, 160, 161 và căn nhà trên đất. Ngày 04/12/2019, ông C đã đăng ký biến động các thửa đất cũ gồm: 156, 160, 161 tờ bản đồ số 04 (tờ bản đồ cũ) diện tích 2.810 m2 thành các thửa đất mới gồm: 286, 287, 682, tờ bản đồ số 24 (tờ bản đồ mới) diện tích 2.449,1 m2. Theo bản trích do chỉnh lý bản đồ địa chính ngày 18/12/2019 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/12/2019 giữa hai bên thì phần đất tranh chấp có diện tích 204,8 m2, Thuộc thửa 697 (hợp tách thửa 286, tách thửa 287) tờ bản đồ số 24. Có căn cứ khẳng định phần đất bà S nhận chuyển nhượng từ ông C, bà TH nằm trong phần đất của ông C, bà TH mà trước đây đã bị thi hành án kê biên. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật.

[5]. Trong quá trình làm việc bà S và bà TH thống nhất thừa nhận mặt dù biên nhận tiền ngày 19/12/2019 thể hiện bà S đã đưa đủ số tiền chuyển nhượng 300.000.000 đồng cho bà TH và ông C nhưng thực tế bà S mới đưa 280.000.000 đồng, còn giữ lại 20.000.000 đồng hai bên thống nhất khi nào làm thủ tục xong sẽ đưa. Bà S trình bày ngày 30/12/2020, bà có đưa thêm cho ông C, bà TH số tiền 5.000.000 đồng trong số tiền mua đất bà S còn giữ, nên thực tế số tiền mua đất bà S còn giữ là 15.000.000 đồng. Xét lời trình bày của bà S phù hợp với biên nhận ngày 30/12/2020. Do đó, có căn cứ khẳng định, số tiền 5.000.000 đồng bà S đưa thêm cho ông C, bà TH ngày 30/12/2020 là tiền mua đất. Do đó, số tiền chuyển nhượng bà S đã trả cho ông C, bà TH là 285.000.000 đồng.

[6]. Xét yêu cầu khởi kiện của bà S yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấy rằng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S với ông C, bà TH có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật nên vô hiệu là phù hợp với quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự. Trong quá trình làm việc, bà TH cũng đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S đối với ông C, bà TH. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/12/2019 giữa bà S với ông C, bà TH đối với quyền sử dụng đất diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh vô hiệu.

[7]. Giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/12/2019 vô hiệu, nên theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự giao dịch này không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó, ông C, bà TH đã nhận của bà S số tiền 285.000.000 đồng nên ông C, bà TH phải có trách nhiệm trả lại cho bà S. Ghi nhận bà S không yêu cầu ông C, bà TH bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xử lý.

[8]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí. Do bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị Lệ TH đều là người cao tuổi và có đơn xin miễn tiền án phí nên được miễn toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 123, 131, 500 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Bé S đối vối ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị Lệ TH.

1.1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/12/2019, được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn G, tại số công chứng 10.521 quyển số 19 TP/CC – SCC/HĐGD, giữa bà Ngô Thị Bé S với ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị Lệ TH đối với quyền sử dụng đất diện tích 204,8 m2, thửa số 697, tờ bản đồ số 24, đất tọa lạc tại ấp TrĐ, xã TrĐ, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh vô hiệu.

1.2. Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Đinh Thị Lệ TH cùng có nghĩa vụ trả cho bà Ngô Thị Bé S số tiền 285.000.000 đồng (Hai Tr tám mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Lê TH được miễn tiền án phí.

Hoàn trả lại cho bà Ngô Thị Bé S 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lại thu số 0009874 ngày 20/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa THận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

383
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về