Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 91/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 91/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/9/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 111/2020/TLST-HNGĐ ngày 17/7/2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/8/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H . Sinh năm 1990. Có mặt.

Nơi đăng ký HKTT: Xóm Bắn, xã C, huyện V, tỉnh Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: Xóm Rồng, xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng Ng . Sinh năm 1992. Vắng mặt.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm Bắn, xã V, huyện N, tỉnh Nghệ An. Hiện đang ở Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày ngày 02/8/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Trọng Ng tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An vào ngày 08/5/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau cho đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tính vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên xung khắc. Anh Ng không có trách nhiệm với gia đình, ham chơi, không chịu làm ăn, đánh đập và đuổi chị ra khỏi nhà. Đến đầu năm 2016 thì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị đã về bên ngoại sống ly thân cho đến nay. Khi quay về thăm nhà thì chị được mẹ chồng là bà Nguyễn Thị H , sinh năm 1972; địa chỉ: Xóm Bắn, xã V, huyện V, tỉnh Nghệ An thông báo là anh Ng đã đi làm ăn ở Đài Loan từ năm 2018 và có thường xuyên liện lạc về với gia đình. Vợ chồng từ đó mất liên lạc với nhau hoàn toàn. Chị không biết địa chỉ của anh Ng . Nay, chị xét thấy không còn tình cảm với anh Ng , không thể tiếp tục sống chung với nhau nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Trọng Ng .

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Trọng Hoàng T , sinh ngày 29/8/2012 và Nguyễn Thị Yến V , sinh ngày 21/12/2014. Hiện nay hai cháu đang sống với chị, do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Tại đơn khởi kiện chị H có ý kiến, vợ chồng ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu T và giao cháu V cho anh Ng nuôi dưỡng. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, chị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu và chưa yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Trọng Ng : Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án kèm theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H ; yêu cầu anh Ng có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử ; … cho anh Nguyễn Trọng Ng thông qua bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của anh Ng ; đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng nêu trên tại trụ sở UBND x ã V, huyện V và nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam của anh Nguyên, nhưng hiện tại anh Ng vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày y kiên gửi cho Tòa án.

Quá trình xác minh được bà Nguyễn Thị H cung cấp: Anh Nguyễn Trọng Ng là con trai của bà H . Hiện nay, anh Ng đang đi lao động tại Đài Loan và thường xuyên liên lạc về với gia đình. Bà đã nhận được Thông báo thụ lý và Công văn của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An yêu cầu cung cấp địa chỉ của anh Ng Trọng Ng nhưng do anh Ng không cung cấp địa chỉ cho bà nên bà không biết được địa chỉ cụ thể của anh Ng để cung cấp cho Tòa án. Bà cũng không thông báo cho anh Nguyên biết về việc chị H làm đơn xin ly hôn vì sợ anh Ng lo lắng. Lúc anh Ng ở nhà có trao đổi với bà là muốn nuôi cả hai con, nay anh Ng gọi điện về thì cũng giữ nguyên quan điểm được nuôi cả hai con.

Cháu Nguyễn Trọng Hoàng T là con chung của anh Ng , chị H trình bày ý kiến: Cháu có nguyện vọng được ở với bố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán , Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luậtt. Việc thu thập chứng cứ thực hiện đúng quy định . Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này, tuy nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nhưng thông qua lời khai của bà H mẹ đẻ anh Ng có căn cứ xác định bị đơn vẫn liên hệ về với gia đình. Bà H đã nhận được Thông báo thụ lý và 02 Công văn yêu cầu cung cấp địa chỉ của bị đơn nhưng bà H không cung cấp địa chỉ cũng không thực hiện yêu cầu của Tòa án về việc thông báo cho anh Ng biết để gửi lời khai về cho Tòa án nên cần xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã xác minh hai lần tại bà Hiền nhưng không có kết quả, đã Tiến hành thủ tục tống đạt, niêm yết công khai 2 lần tại nơi cư trú cuối cùng của anh Ng ở Việt Nam nên có cơ sở đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung: Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị H và anh Ng được ly hôn. Giao hai con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Ng do chị H chưa yêu cầu. Anh Ng có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con bằng vụ án khác. Về tài sản, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Trọng Ng hiện đang ở nước ngoài. Quá trình giải quyết vụ án theo bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của anh Ng xác định thì anh Ng hiện đang lao động tại Đài Loan và anh Ng thường xuyên liên lạc về với bà. Tòa án đã hai lần yêu cầu bà Nguyễn Thị H cung cấp địa chỉ, tin tức của anh Ng nhưng bà H không cung cấp cũng không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh Ng biết để anh Ng gửi ý kiến về cho Tòa án. Do đó, việc anh Nguyễn Trọng Ng vắng mặt thuộc trường hợp cố tình dấu địa chỉ , từ chối khai báo theo quy đinh tại Công văn số 253/TATC–PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Viêt Nam ở nước ngoài không rõ đia chỉ. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoan 2 Điêu 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Nguyên đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoan 3 Điêu 228 Bộ luật tố tụng Dân sự , Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo đê đam bao quyên va lơi ich hơp phap cua đương sư.

[2] Về quan hệ tình cảm: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Trọng Ng kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là hôn nhân hợp pháp. Theo chị H trình bày, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc cho đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tính không hợp, anh Ng không có trách nhiệm với gia đình, ham chơi, không chịu làm ăn, đánh đập và đuổi chị H ra khỏi nhà. Đến đầu năm 2016 thì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị H đã về bên ngoại sống ly thân cho đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, chị Hoa đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ng . Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã yêu cầu thân nhân của anh Ng cung cấp địa chỉ và thông báo cho anh Ng n biết để gửi văn bản trình bày ý kiến về cho Tòa án nhưng thân nhân của anh Ng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án. Tại phiên tòa anh Ng vắng mặt. Xét thấy, chị H và anh Ng sống ly thân đã lâu, mâu thuẫn vợ chồng thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cư vao Điêu 56 Luât Hôn nhân va gia đinh giai quyêt cho chị Nguyễn Thị H đươc ly hôn với anh Nguyễn Trọng Ng .

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Trọng N có hai con chung là Nguyễn Trọng Hoàng T , sinh ngày 29/8/2012 và Nguyễn Thị Yến V , sinh ngày 21/12/2014, hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Cháu T có nguyện vọng được ở với anh Ng . Tuy nhiên, hiện nay anh Ng đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài không có điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Để đảm bảo quyền lợi cho cháu Tín và cháu V , Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cả hai con chung cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H chưa yêu câu nên Tòa án chưa xem xét . Anh Ng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Theo chị Nguyễn Thị H , vơ chông không co tai san chung , không co nơ chung , không yêu câu Toa an giai quyêt . Tuy nhiên, hiện nay anh Ng chưa co y kiên nên Toa an chưa co cơ sơ đê xem xet . Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 147; khoản 2 Điêu 207; khoản 3 Điều 228; khoản 1, 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng Dân sự ; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình ; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tóa án. Xử:

- Về quan hệ tình cảm: Cho chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Trọng Ng được ly hôn.

- Về con chung: Giao hai con chung là cháu Nguyễn Trọng Hoàng T , sinh ngày 29/8/2012 và Nguyễn Thị Yến V , sinh ngày 21/12/2014 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T và Cháu V đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H chưa yêu cầu nên Tòa án chưa xem xét. Anh Nguyễn Trọng Ng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

- Về tài sản chung , nợ chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp tại Cục thi hành án tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0000051 ngày 16/7/2020.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Nguyễn Trọng Ng đang cư trú tại nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 91/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:91/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về