Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 78/2021/ST-HNGĐ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 78/2021/ST-HNGĐ NGÀY 28/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2021/TLST - HNGĐ ngày 24/3/2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXX - ST ngày 01 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lương Văn M - sinh năm 1987.

2. Bị đơn: Chị Lương Thị P - sinh năm 1992.

Đều có địa chỉ tại: Bản H, xã Đ, huyện C, tỉnh N. Anh M có đơn xin xét xử vắng mặt; chị P vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 19/3/2021 của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Lương Văn M trình bày: Anh và Chị Lương Thị P đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 21/4/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh N trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi cọ, xúc phạm lẫn nhau. Nguyên nhân do quan điểm, tính cách không phù hợp, kinh tế khó khăn, vợ chồng lại không hiểu và thông cảm cho nhau cùng nhau vượt khó dẫn đến mâu thuẫn càng trầm trọng. Đến năm 2015 chị P bỏ đi khỏi nhà, anh đã nhiều lần liên lạc với chị P đề nghị chị P về nhà vì hai con còn nhỏ nhưng chị P không về. Quá trình xẩy ra mâu thuẫn đã được gia đình hai bên và chính quyền địa phương hòa giải nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện mà còn trầm trọng hơn. Hiện nay tình cảm vợ chồng thực sự không còn anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly chị Lương Thị P.

Về con chung: Quá trình chung sống anh M và chị P có hai người con chung tên là Lương Thị Thu L, sinh ngày 28/01/2009, Lương Thị Kim T, sinh ngày 13/7/2012. Hiện nay các cháu đang sống với anh M và ông bà nội tại bản H, xã Đ, huyện C, tỉnh N. Nếu ly hôn anh M có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu chị P cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng anh tự thỏa thuận tự chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng anh M và chị P không nợ tổ chức, cá nhân nào và cũng không ai nợ anh chị.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm chị P vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng đúng quy định tại Điều 204; 207; 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/4/2021 hai cháu Lương Thị Thu L và Lương Thị Kim T có nguyện vọng được ở với bố.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 53; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận đơn ly hôn của anh Lương Văn M. Anh M và chị P chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Về con chung: Giao con chung Lương Thị Thu L và Lương Thị Kim T cho anh Lương Văn M trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con anh M không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung: Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; về án phí: Buộc anh Lương Văn M phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, bị đơn hiện cư trú tại bản H, xã Đ, huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, qua xác minh ngày 26/3/2021 tại Ban công an xã Đ, huyện Con Cuông cho thấy chị P có hộ khẩu thường trú tại bản H, xã Đ, huyện Con Cuông nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương, đi đâu cũng không thông báo cho chính quyền địa phương biết nên không biết địa chỉ hiện nay của chị P ở đâu. Như vậy, bị đơn đã thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú mới. Theo quy định tại Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình giấu địa chỉ nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tụng chung là phù hợp với hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lương Thị P đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị Sang theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị P không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp và Tòa án thu thập được để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy anh Lương Văn M và chị Lương Thị P có đăng ký kết hôn vào ngày 21/4/2011 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc đăng ký kết hôn là tự nguyện, không có ai ép buộc, không vi phạm quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh M và chị P là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng anh M và chị P chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Anh M và chị P sống ly thân với nhau từ năm 2015 cho đến nay, chị P bỏ đi khỏi nhà và không liên lạc với nhau, như vậy anh M và chị P đã vi phạm tình nghĩa vợ chồng.

Tại phiên tòa chị P vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy quá trình kết hôn và chung sống giữa anh M và chị P xảy ra mâu thuẫn không thể giải quyết được. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh M và chị P không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận cho anh Lương Văn M ly hôn chị Lương Thị P.

Về con chung: Vợ chồng anh Lương Văn M và chị Lương Thị P có hai người con chung tên là Lương Thị Thu L, sinh ngày 28/01/2009 và Lương Thị Kim T, sinh ngày 13/7/2012. Hiện nay các con đang sống với anh M và ông bà nội tại bản H, xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Quá trình giải quyết vụ án anh M có nguyện vọng được nuôi cả hai con và không yêu cầu chị P cấp dưỡng tiền nuôi con, tại biên bản lấy lời khai các cháu Thu L và Kim T đều có nguyện vọng được ở với anh M. Mặt khác hiện nay chị P không có mặt ở địa phương, việc giao con cho chị P nuôi dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt của con, xét thấy, nguyện vọng của anh M là chính đáng và phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Do vậy cần giao hai người con chung cho anh Lương Văn trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con do anh M chưa yêu cầu nên chưa giải quyết.

Về tài sản chung: Do anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Anh Lương Văn M phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho anh Lương Văn M được ly hôn chị Lương Thị P.

- Về con chung: Giao con chung tên là Lương Thị Thu L, sinh ngày 28/01/2009 và Lương Thị Kim T, sinh ngày 13/7/2012 cho anh Lương Văn M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu Thu L và Kim T tròn 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con do anh M chưa yêu cầu nên chưa giải quyết.

Chị Lương Thị P có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vì lợi ích mọi mặt của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con.

Anh M cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Lương Văn M phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí anh M đã nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002383 ngày 24/3/2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 78/2021/ST-HNGĐ

Số hiệu:78/2021/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về