Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 70/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 70/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2022  VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 04/4/2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên mở phiên toà xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  dân  sự  thụ  lý  số  08/2022/TLST-HNGĐ,  ngày  06/01/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/02/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số  13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15/3/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bàn Thị H, sinh năm 1979.

- Bị đơn: Anh Đặng Văn L, sinh năm 1977.

Cùng địa chỉ: Thôn P 2, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

(Chị H vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Anh L đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ hai lần nhưng tại phiên tòa vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tại Biên bản lấy lời khai, nguyên đơn chị Bàn Thị H  trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đặng Văn L được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau ngày 25/12/2002 tại UBND xã Thành Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường tại thôn Phúc Long 2, xã Thành Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, sau đó một thời gian vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách giữa chị và anh L không hợp nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống; anh L thường xuyên uống rượu, chơi cờ bạc   không tu chí làm ăn kinh tế, chị có khuyên ngăn nhiều lần nhưng anh L không nghe mà còn đánh đập chị nhiều lần, trong gia đình có bao nhiêu tài sản thì anh L đều mang đi bán lấy tiền chơi cờ bạc. Năm 2013 anh L bị xử phạt 08 tháng tù về tội đánh bạc, sau khi chấp hành hình phạt xong anh L vẫn không tu chí làm ăn kinh tế, năm 2020 anh Lợi vẫn tiếp tục đánh bạc và bị xử phạt 13 tháng tù. Sau khi ra tù anh L vẫn tiếp tục chơi bời, không quan tâm gì đến vợ và các con. Thực tế vợ chồng chị cũng sống ly thân nhau từ hơn một năm nay không còn quan hệ vợ chồng gì với nhau nữa. Chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh L, mâu thuẫn giữa chị và anh L đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng không thể khắc phục được; mâu thuẫn đã căng thẳng, trầm trọng, vợ chồng không thể đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dậy con cái. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đặng Văn L theo quy định pháp luật.

- Về con chung: Chị và anh Đặng Văn L có 02 con chung là Đặng Văn I, sinh ngày  12/12/1997 và Đặng Thị N, sinh ngày 19/8/1998. Hiện nay các con chung của vợ chồng chị đều đã đủ 18 tuổi trưởng thành, sức khỏe phát triển bình thường và có khả năng tự lao động được nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

- Về tài sản chung, đất đai chung: Chị và anh Đặng Văn L có một số tài sản chung, đất đai chung nhưng tự thỏa thuận chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

- Về vay nợ chung: Chị và anh Đặng Văn L không vay nợ ai, không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Tại phiên tòa, chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị H giữ nguyên ý kiến đã trình bày nêu trên, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì khác.

* Tại Biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Đặng Văn L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Bàn Thị H được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau ngày 25/12/2002 tại UBND xã Thành Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc bình thường đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách không hợp nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Do anh ham chơi cờ bạc phải đi chấp hành án, nay đã chấp hành án xong nhưng vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc nhau như trước. Anh xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị H đã căng thẳng, trầm trọng, vợ chồng không thể đoàn tụ xây dựng hạnh phúc vì thực tế vợ chồng anh đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2021 đến nay. Chị H làm đơn xin ly hôn anh nhất trí nhưng anh không đến Tòa án giải quyết, tùy chị H muốn giải quyết như thế nào là do  chị H.

- Về con chung: Anh và chị Bàn Thị H có 02 con chung là Đặng Văn I, sinh ngày  12/12/1997 và Đặng Thị N, sinh ngày 19/8/1998. Hiện nay các con chung của vợ chồng anh đều đã đủ 18 tuổi trưởng thành, sức khỏe phát triển bình thường và có khả năng tự lao động được nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

- Về tài sản chung, đất đai chung: Anh và chị Bàn Thị H có một số tài sản chung, đất đai chung nhưng tự thỏa thuận chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn.

- Vay nợ chung: Anh và chị Bàn Thị H không vay nợ ai, không cho ai vay nợ nên không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án số 08/2022/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2022 và các văn bản tố tụng khác cho anh Đặng Văn L biết, báo gọi anh L nhiều lần đến Tòa án giải quyết vụ án nhưng anh L không có mặt tại gia đình và địa phương, không trực tiếp đến Tòa án làm việc. Thời gian gần đây khi anh L có mặt tại địa phương sinh sống và lao động, Toà án đã phối hợp với đại diện thôn Phúc Long 2, xã Thành Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang trực tiếp đến gia đình làm việc với anh L, tiến hành lấy lời khai của anh L nhưng sau khi lấy lời khai xong anh L xác định lời trình bày trong biên bản lấy lời khai do Toà án ghi (anh L trực tiếp đọc lại toàn bộ nội dung biên bản) xác nhận nội dung ghi trong biên bản là đúng ý kiến của anh nhưng anh L không vào ký biên bản. Vì vậy Tòa án đã tiến hành niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh L theo quy định pháp luật.

Qua xác minh tại địa phƣơng thôn Phúc Long 2, xã Thành Long và Công an xã Thành Long, huyện Hàm Yên đƣợc cung cấp thông tin:

Hiện nay chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L là công dân cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn P 2, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Chị H và anh L được tự do tìm hiểu và đăng kết hôn với nhau ngày 25/12/2002 tại UBND xã Thành Long, huyện Hàm Yên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Quá trình chung sống giữa chị H và anh L không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn to tiếng cãi chửi nhau, anh L còn đánh đập chị H nhiều lần. Do anh L không tu chí làm ăn kinh tế trong gia đình, đã có hành vi vi phạm pháp luật (hai lần bị công an bắt về tội đánh bạc), sau khi chấp hành hình phạt tù xong anh L vẫn không tu chí làm ăn kinh tế mà vẫn tiếp tục chơi bời, không quan tâm gì đến vợ và các con. Anh L thường xuyên đi làm xa nhà, vắng mặt tại địa phương và gia đình, vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2020 cho đến nay. Đồng thời đại diện thôn Phúc Long 2, xã Thành Long, huyện Hàm Yên cũng xác định địa phương đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án số 08/2022/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2022 của Tòa án về việc giải quyết ly hôn giữa chị H và anh L, do Tòa án gửi nhờ địa phương giao lại cho anh L biết nội dung. Tuy nhiên do thời gian trước đây anh L thường xuyên đi làm ăn xa vắng nhà, không có mặt tại địa phương nên thôn đã trực tiếp niêm yết Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án theo quy định pháp luật. Hiện nay anh L đã có mặt tại gia đình và địa phương, Toà án đã báo gọi nhiều lần nhưng anh L không đến Toà án làm việc. Về việc chị H làm đơn xin ly hôn với anh L, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về tài liệu, chứng cứ: Các đương sự cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng  cứ gồm:

- Nguyên đơn chị Bàn Thị H cung cấp cho Tòa án: 01 Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn; 01 Bản sao Trích lục kết hôn; 02 Bản sao Giấy khai sinh; 02 Sổ hộ khẩu là bản sao chứng thực; 02 Giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Đặng Văn L và Bàn Thị H   đều là bản sao chứng thực; 01 Bản sao sổ hộ khẩu và 01 Đơn xin xác nhận là cùng một người đề ngày 24/11/2021.

- Bị đơn anh Đặng Văn L cung cấp cho Tòa án: Không có.

Ngoài ra, các đương sự không ai cung cấp tài liệu, chứng cứ gì khác.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên đã trực tiếp tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác, thông báo anh Đặng Văn L đến Tòa án làm việc để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định pháp luật. Tuy nhiên các lần thông báo của Tòa án anh L đều không đến làm việc, Tòa án không tiến hành hòa giải cho các bên đương sự suy nghĩ lại tình cảm để quay về hàn gắn, đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì vậy Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung của pháp luật.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn chị Bàn Thị H chấp hành tốt các quy định của pháp luật; Bị đơn anh Đặng Văn L chưa chấp hành các quy định về báo gọi và tham gia phiên tòa khi Tòa án triệu tập.

- Về việc giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng khoản  1 Điều 28; các Điều 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 267, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Bàn Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bàn Thị H được ly hôn với anh Đặng Văn L;

- Về án phí:

+ Chị Bàn Thị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp   luật.

+ Anh Đặng Văn L không phải chịu án phí.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng   cáo bản án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Chị Bàn Thị H có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đặng Văn L nên xác định đây là vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Theo thông tin Tòa án xác minh thì hiện nay bị đơn anh Đặng Văn L là công dân có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn P 2, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án   nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật  Tố tụng dân sự.

- Về việc vắng mặt của bị đơn anh Đặng Văn L tại phiên tòa: Sau khi thụ lý vụ án, bị đơn anh Đặng Văn L đã được Toà án giao, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh L vẫn vắng mặt không đến Toà án làm việc và không đến tham gia phiên tòa mà không có lý do chính đáng. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Đặng Văn L.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau ngày 25/12/2002 tại UBND xã Thành Long, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Như vậy, quan hệ hôn nhân của chị H và anh L là hợp pháp.

Quá trình chung sống giữa chị H và anh L hạnh phúc đến khoảng năm 2020 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn kể từ đó cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do tính cách giữa chị H và anh L không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống; do anh L không tu chí làm ăn kinh tế gia đình, thường xuyên đánh đập chị H nhiều lần; anh L ham chơi cờ bạc bị công an bắt phải đi chấp hành án phạt tù, sau khi chấp hành án phạt tù xong anh L không thay đổi tính nết, vẫn ham chơi không tu chí làm ăn, từ đó dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi chửi nhau, không ai quan tâm và yêu thương, tin tưởng nhau. Thực tế chị H và anh L đã sống ly thân nhau từ năm 2021 đến nay không còn quan hệ vợ chồng gì với nhau nữa. Chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng và kiên quyết xin ly hôn với anh L. Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị H và anh L đã sống ly thân nhau từ năm 2021 đến nay, trong thời gian sống ly thân anh L và chị H không liên lạc, không thăm hỏi gì đến nhau nữa. Anh L thường xuyên đi làm ăn xa, không có mặt tại gia đình và địa phương, chị H cũng đi làm xa thi thoảng mới về nhà, mỗi lần chị H về nhà thì vợ chồng không nói chuyện gì với nhau, anh L còn thường xuyên đuổi đánh không cho chị về nhà. Do các lần Toà án báo gọi anh L đều không đến Toà án làm việc nên Toà án không tiến hành hoà giải về tình cảm vợ chồng cho anh chị được. Như vậy cuộc sống hôn nhân giữa anh L và chị H không còn hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị không thực sự mong muốn vợ chồng quay về đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình, vì từ năm 2021 đến nay anh chị đã sống ly thân và đều không ai đưa ra biện pháp tích cực nào nhằm cải thiện quan hệ vợ chồng. Tại phiên tòa chị H vắng mặt nhưng trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị H vẫn giữ nguyên đề nghị giải quyết ly hôn với anh L. Do đó, cần xử cho chị Bàn Thị H được ly hôn anh Đặng Văn L là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L cùng xác định vợ chồng anh chị có 02 con chung là Đặng Văn I, sinh ngày 12/12/1997 và Đặng Thị N, sinh ngày  19/8/1998. Hiện nay các con chung của vợ chồng anh chị đều đã đủ 18 tuổi trưởng thành, sức khỏe phát triển bình thường và có khả năng tự lao động được, do anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, đất đai chung: Chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L cùng xác định vợ chồng có một số tài sản chung, đất đai chung nhưng tự thoả thuận chia, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ chung: Chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L cùng xác định không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Bàn Thị H phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Anh Đặng Văn L không phải nộp án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, các Điều 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 267,  271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Bàn Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bàn Thị H được ly hôn với anh Đặng Văn L.

2. Về án phí: Chị Bàn Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn  đồng)  theo  Biên  lai  thu  tạm  ứng  án  phí,  lệ  phí  Tòa  án  số  0004621  ngày  06/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Chị  Bàn Thị H đã nộp đủ tiền án phí.

- Anh Đặng Văn L không phải nộp án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Bàn Thị H và anh Đặng Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm  yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 70/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về