Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 39/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 83/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn N, xã Hà H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/5/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Hoàng Văn D trình bày: Anh và chị Phạm Thị K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 04/4/2016. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và không hòa hợp nên ảnh hưởng trầm trọng đến tình cảm vợ chồng. Anh D và chị K đã sống ly thân từ giữa năm 2018 đến nay, thời gian ly thân, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh D đề nghị Toà án giải quyết cho anh ly hôn với chị Phạm Thị K.

Về con chung: Anh Hoàng Văn D khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Hoàng Gia B, sinh ngày 21/3/2016, hiện cháu B đang ở với anh D. Anh D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu B, không yêu cầu chị K phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Anh Hoàng Văn D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập chị Phạm Thị K đến Toà án để viết bản khai nhưng chị K không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của chị Khánh.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh D đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với chị K và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu B, không yêu cầu chị K phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83; khoản 1 Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Phạm Thị K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng chị K không có mặt mà không có lý do, nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị K cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh D vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh D và chị K là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Anh Hoàng Văn D và chị Phạm Thị K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo anh D, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và tính tình không hợp, dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ giữa năm 2018 đến nay. Kết quả xác minh ngày 03/7/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống anh D và chị K thường xuyên cãi chửi nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay. Như vậy trong cuộc sống vợ chồng giữa anh D và chị K luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Một thời gian dài vợ chồng ly thân không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh D được ly hôn với chị K là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Hoàng Văn D khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Hoàng Gia B, sinh ngày 21/3/2016. Anh D cũng xuất trình cho Tòa án trích lục khai sinh, trong đó xác định cháu B là con chung của chị K và anh Dũng. Mặt khác, cháu B được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu B là con chung của anh D và chị K. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu B do anh D nuôi dưỡng, nên giao cháu B cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của anh D về việc không yêu cầu chị K phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh là phù hợp với quy định tại điều Điều 81, 82, 83; khoản 1 Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Anh Hoàng Văn D không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Hoàng Văn D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Hoàng Văn D và chị Phạm Thị K.

2. Về con chung: Công nhận cháu Hoàng Gia B, sinh ngày 21/3/2016 là con chung của anh D và chị K. Giao cháu B cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh D về việc không yêu cầu chị K phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Chị K có quyền đi lại, thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị K không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh D.

3. Về án phí: Anh Hoàng Văn D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh D đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009123 ngày 29/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh D đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Hoàng Văn D và chị Phạm Thị K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 39/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về