Bán án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 16/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo số: 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2022/QĐST – HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Quang K, sinh năm 1963.

Địa chỉ: Số 430/8, tổ 21, khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang. (Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Y, sinh năm 1963. Vắng mặt Địa chỉ: Số 430/8, tổ 21, khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/12/2021 và quá trình xét xử, nguyên đơn Trần Quang K trình bày:

Năm 1988, ông K và bà Phạm Thị Y quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng kY kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà Y gây nợ nần, làm tiêu tán tài sản trong gia đình, dẫn đến vợ chồng cự cãi, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do đó, ông K yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Y, vì ông bà có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Về con chung: Có 02 con tên Trần Thị Hoàng D, sinh ngày 03/7/1992 và Trần Quang H, sinh ngày 02/01/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng tự lập. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Phạm Thị Y vắng mặt trong quá trình xét xử, không gửi văn bản trình bày Y kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ Y kiến của các đương sự tại bản tự khai, Tòa án nhận định:

Về thủ tục tố tụng

[1] Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đăng kY thường trú tại thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, riêng bị đơn đang sinh sống tại địa phương theo xác nhận của Công an phường Mỹ Hòa và bị đơn nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án cấp tống đạt nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung tranh chấp

[1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 38/88, quyển số I/KH ngày 30/8/1988 Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện T, tỉnh An Giang, thể hiện giữa nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, quá trình chung sống, nguyên đơn cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong cuộc sống vợ chồng nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xét thấy, trong quan hệ hôn nhân vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương nH khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc , không tin tưởng nhau trong đời sống vợ chồng. Quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng bị đơn không quan tâm, không phản bác lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia hòa giải để hàn gắn quan hệ hôn nhân, điều này thể hiện tình cảm vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, xét về tình nghĩa vợ chồng thì cả hai không còn nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 19, Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

[2] Về con chung: Có 02 con tên Trần Thị Hoàng D, sinh ngày 03/7/1992 và Trần Quang H, sinh ngày 02/01/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng tự lập nên không xét đến.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 19; Điều 51; Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lY và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Quang K đối với bị đơn Phạm Thị Y.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Quang K được ly hôn với bà Phạm Thị Y. Quan hệ hôn nhân giữa ông K và bà Y chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Có 02 con tên Trần Thị Hoàng D, sinh ngày 03/7/1992 và Trần Quang H, sinh ngày 02/01/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng tự lập

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn Trần Quang K phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000873 ngày 11/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Nguyên đơn đã thực hiện xong.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

(Giải thích điều 26 Luật Thi hành án dân sự) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về