Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 34/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 168/2021/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990 (có mặt); Địa chỉ: Thôn H, xã K, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc;

- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn H, xã K, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng (vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1964 và Lương Thị L, sinh năm 1964; Cùng địa chỉ tại: Thôn H, xã K, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 10 tháng 3 năm 2021 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Nguyễn Thị H trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn T phát sinh quan hệ nam nữ với nhau từ năm 2005 và có thai, đến ngày 12/01/2006, chị sinh cháu Trần Văn Đ, sau đó gia đình hai bên đã tổ chức đám cưới cho chị và anh T. Cưới xong chị về chung sống cùng anh T và gia đình anh T Đ một thời gian rồi vợ chồng ở riêng. Việc chị quan hệ tình dục với anh T rồi có con chung cùng nhau khi chị chưa đủ 18 tuổi là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Đến ngày 26/11/2013, chị và anh T thực hiện đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc Đ một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, quan điểm sống khác nhau nên vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Khoảng tháng 02/2018, anh T bị Bộ Công an bắt và bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, Tòa án cấp cao tại Hà Nội xử tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện anh T đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng để chờ ngày thi hành án. Do thời gian xa nhau đã lâu nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và để ổn định cuộc sống, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị Đ ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Trần Tiến Đ, sinh ngày 12/01/2006, Trần Thị Hồng N sinh ngày 29/8/2008 và Trần Thị Quỳnh N sinh ngày 27/8/2013. Hiện nay cháu Đ đang ở cùng ông bà nội còn cháu N và cháu N ở cùng chị. Nay ly hôn, chị xin Đ nuôi cả ba con chung. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Trần Văn T vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 15/6/2021, anh T trình bày: Anh và chị H kết hôn từ năm 2005. Sau khi cưới H về ở chung cùng gia đình anh. Vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Đối với việc chị H xin ly hôn anh nhất trí. Vợ chồng có 03 con chung như chị H trình bày là đúng. Anh nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung cho đến khi trưởng T. Và anh không có khả năng đóng góp nuôi con chung. Về tài sản, công nợ, đất canh tác, công sức lao động anh không yêu cầu giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Trần Văn Đ và bà Lương Thị L vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 14/7/2021, ông Đ, bà L trình bày: Tháng 11/2013 ông bà tổ chức cưới cho anh T xây dựng gia đình với chị H. Cưới xong chị H về làm dâu và ở chung cùng vợ chồng ông bà Đ một thời gian thì ở riêng. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc Đ một thời gian dài không có mâu thuẫn gì. Sau này đến năm 2018 anh T bị bắt vì thực hiện hành vi “Vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy” và bị tuyên án tử hình, cho đến nay vẫn đang tạm giam tại Trại giam tỉnh Cao Bằng để chờ ngày thi hành án. Nay chị H xin ly hôn, ông bà cũng nhất trí không có ý kiến gì. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 03 con chung là Trần Tiến Đ, sinh ngày 12/01/2006, Trần Thị Hồng N sinh ngày 29/8/2008 và Trần Thị Quỳnh N sinh ngày 27/8/2013. Hiện nay cháu Đ đang ở cùng ông bà còn cháu N và cháu N ở cùng chị H. Nay chị H xin ly hôn anh T, ông bà đề nghị Tòa án cho ông bà Đ tiếp tục nuôi cháu Đ vì cháu ở cùng vợ chồng ông bà từ nhỏ. Còn cháu N và cháu N chị H xin nuôi ông bà đồng ý không có ý kiến. Việc ông bà chăm nuôi cháu Đ cho chị H và anh T là tự nguyện, không có yêu cầu, đề nghị gì về việc thanh toán công sức hay yêu cầu gì khác đối với anh T và chị H. Kể cả sau khi chị H và anh T ly hôn, ông bà cũng tự nguyện giúp đỡ anh chị chăm nuôi cháu Đ và kể cả cháu N và cháu N nếu chị H không nuôi thì ông cũng nhận nuôi và không có yêu cầu đề nghị gì. Về tài sản, công nợ, đất canh tác và công sức: Ông bà không có ý kiến, yêu cầu, đề nghị gì.

Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã cung cấp: Ngày 26/11/2013, UBND xã K tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn cho chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn T. Sau khi kết hôn, chị H về làm dâu và vợ chồng anh chị ở riêng. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc Đ một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn Đ biết là do quá trình chung sống tính tình vợ chồng không hòa hợp, quan điểm sống khác nhau nên vợ chồng anh chị thường xuyên xảy ra va chạm. Tháng 02 năm 2018, anh T bị Công an tỉnh Cao Bằng và Bộ Công An bắt và tạm giam vì có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến năm 2020, bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện anh T vẫn đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng để chờ ngày thi hành án. Chị H và anh T sống ly thân nhau từ năm 2018 cho đến nay, do thời gian xa nhau đã lâu nên tình cảm vợ chồng anh chị cũng ngày càng trở nên lạnh nhạt. Nay chị H xin ly hôn anh T đề nghị Tòa án xem xét cho anh chị Đ ly hôn theo quy định của pháp luật để giải phóng cho chị H và để chị H Đ ổn định cuộc sống. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 03 con chung là Trần Tiến Đ, sinh ngày 12/01/2006, Trần Thị Hồng N sinh ngày 29/8/2008 và Trần Thị Quỳnh N sinh ngày 27/8/2013. Hiện nay cả ba cháu đang ở cùng chị H. Nay ly hôn, đề nghị Tòa án xem xét giao cả ba con chung cho chị H nuôi là phù hợp. Về tài sản, công nợ: Anh chị có tài sản gì hay nợ nần ai, cho ai vay tài sản gì hay không thì chúng tôi không biết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi xét xử thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc chấp hành thời hạn xét xử đúng quy định. Tại phiên tòa, việc khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa Đ thực hiện đúng quy định. Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự . Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh T của chị H. Về con chung: Giao cho chị H nuôi cả ba con chung. Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác, công sức các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ Đ thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Văn T, ông Trần Văn Đ và bà Lương Thị L đã có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật .

[2] Về quan hệ Hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn T thấy rằng:

Việc chị H có quan hệ tình dục với anh T rồi có con chung cùng nhau khi chị H chưa đủ 16 tuổi, anh T chưa đủ 18 tuổi là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, gia đình hai bên đồng thuận và đã tổ chức cưới xin đàng hoàng cho chị H, anh T, sau đó chị H cũng đã chuyền đến chung sống hòa thuận cùng gia đình anh T một thời gian dài do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Đến ngày 26/11/2013, chị H và anh T đã thực hiện đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn T là cuộc hôn nhân tiến bộ và hợp pháp, xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của các bên nên cũng có một thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng có quan điểm sống khác nhau, bản thân anh T có sa đà vào con đường phạm pháp nên thường xuyên cãi nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Tháng 02/2018, anh T bị Bộ Công an bắt và bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, Tòa án cấp cao tại Hà Nội xử tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện anh T đang bị giam tại Trai tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng để chờ ngày thi hành án. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T đã đến mức căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt Đ, đời sống chung không thể kéo dài. Việc chị H xin ly hôn anh T là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Đ chấp nhận.

[3] Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã lấy lời khai của cả ba con chung, cháu Đ có nguyện vọng ở cùng ông bà nội còn cháu N và cháu N có nguyện vọng ở cùng chị H. Tuy nhiên, xét thấy, hiện nay anh T đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng để chờ ngày thi hành án tử hình, ông Đ và bà L tuổi đã cao, để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt của các cháu Đ ổn định, cần giao cả ba con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Chị H không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị H và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị H Đ ly hôn anh Trần Văn T Về con chung: Giao cho chị H Đ nuôi dưỡng cả ba con chung là Trần Tiến Đ, sinh ngày 12/01/2006 , Trần Thị Hồng N sinh ngày 29/8/2008 và Trần Thị Quỳnh N sinh ngày 27/8/2013 (Hiện nay cháu N và N đang ở cùng chị H còn cháu Đ ở cùng ông Đ, bà L). Chị H không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai Đ cản trở.

Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, Đ trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0000647 ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường. Chị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp quyết định Đ thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người Đ thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án Đ thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Đ giao nhận bản án hoặc bản án Đ niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 34/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về