TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2022/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 24/2022/QĐXX - ST ngày 20 tháng 5 năm 2022, quyết định hoãn phiên Tòa số 21/2022/ QĐST- HNGĐ ngày 15/6/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị D, sinh năm 1993.
Nơi cư trú: Thôn K, xã VL, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đề, sinh năm 1987.
Nơi cư trú: Thôn K, xã VL, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
(Anh Đ vắng mặt tại phiên Tòa, chị D có đơn xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 10/3/2022, cũng như tại bản tự khai, nguyên đơn là chị Đoàn Thị D trình bày: Chị và anh Đ kết hôn với nhau ngày 23/12/2011, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Nay xã SH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do giữa chị và anh Đ bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên chị và anh Đ đã sống ly thân. Chị xác định không còn tình cảm với anh Đ, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị xin được ly hôn anh Đề. Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung Nguyễn Ngọc Bảo Vy, sinh ngày 20/6/2012. Chị xin nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bà Vũ Thị H là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn Đ trình bày: Lý do mâu thuẫn giữa chị D và anh Đ là bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung và vợ chồng đã sống ly thân. Quan điểm của bà mong muốn vợ chồng về đoàn tụ để nuôi dạy con chung.
Bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa nhưng anh Đ không đến Tòa án.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 20/6/2012 cho chị Đoàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Anh Đcó quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh Đ và chị D có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không phải giải quyết. Về án phí: Chị Đoàn Thị D phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà.
- Về thủ tục tố tụng:
Chị Đoàn Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo trình tự vắng mặt của nguyên đơn. Anh Nguyễn Văn Đ là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Đề.
- Về nội dung:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đoàn Thị D và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau có đăng ký ngày 23/12/2011, tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (nay là xã SH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh Đ không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau, chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình, chị D và anh Đ đều bất đồng quan điểm về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân. Chị D kiên quyết xin ly hôn anh Đ. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh Đ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đoàn Thị D, xử cho chị D được ly hôn anh Đề.
[2]. Về quan hệ con chung: Chị D và anh Đcó một con chung Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 20/6/2012. Quan điểm của chị D xin nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, hiện nay cháu V đang ở với chị D và nguyện vọng cháu Vy muốn ở với mẹ nên cần giao cho chị Đoàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Đ không có văn bản nào gửi Tòa thể hiện quan điểm của mình về phần tài sản và không có lời khai về phần tài sản, không có mặt tại phiên tiếp cận chứng cứ công khai và hòa giải, tại phiên Tòa. Do đó phần tài sản Tòa án không giải quyết. Khi các đương sự có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.
[4]. Về án phí: Chị D phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo V, sinh ngày 20/6/2012 cho chị Đoàn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Anh Đcó quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh Đ, chị D có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Tòa án không giải quyết về phần tài sản. Khi chị D và anh Đ có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.
4. Về án phí: Chị Đoàn Thị D phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị D đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0000541 ngày 25 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền chị D đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Đoàn Thị D và anh Nguyễn Văn Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 32/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 32/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về