Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 31/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Hện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh năm 1990; Trú tại: Thôn Diệm X, xã Việt X, Hện V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Phạm Minh Ch, sinh năm 1990; Trú tại: Thôn Diệm X, xã Việt X, Hện V, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 15 tháng 10 năm 2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Ch ngày 04/9/2014. Trước khi cưới có được tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hồng L, Hện S, tỉnh Tuyên Quang. Cưới xong chị về làm dâu và ăn ở chung cùng gia đình anh Ch. Đến tháng 8 năm 2015 vợ chồng ăn ở riêng. Tình cảm vợ chồng ban đầu đầm ấm hạnh phúc. Đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Ch nghiện ma túy dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần và anh Ch hay đánh đập chửi bới chị. Chị và gia đình anh Ch có động viên kHên bảo anh để anh cai nghiện ma túy. Đến cuối năm 2018 anh Ch phải đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 22 tháng tại trại cai nghiện số 4, thành phố Hà Nội. Đến tháng 8/2020 anh Ch đi cai nghiện về chị ở với anh Ch được 02 ngày sau đó chị ra ngoài ở riêng vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn chị xin ly hôn anh Ch.

* Bị đơn anh Nguyễn Phạm Minh Ch trình bày: Anh thừa nhận chị Tr trình bày về điều kiện kết hôn, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Cuối năm 2017 anh bị nghiện ma túy do anh đi lái máy xúc nên bị lôi kéo rủ rê. Đến ngày 22/12/2018 anh bị bắt và kiểm tra nước tiểu dương tính với ma túy nên anh bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện số 4, xóm Muỗi, Yên Bài, quận Ba vì, thành phố Hà Nội, thời hạn 20 tháng; đến ngày 22/8/2020 anh trở về địa phương; Quá trình đi cai nghiện ma túy anh đã cai được ma túy hiện nay anh không còn nghiện ma túy nữa. Nay chị Tr có đơn xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh đồng ý ly hôn chị Tr.

- Về con chung: Chị Tr và anh Ch thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 07/01/2015. Hiện nay cháu H đang ở với anh Ch. Ly hôn chị Tr xin nuôi con không yêu cầu anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ý kiến anh Ch xin nuôi con không yêu cầu chị Tr phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị Tr đang làm công nhân công ty điện tử DDTECH ở Hện Tam Dương, thu nhập nhập từ 7 đến 10 triệu đồng, sau khi ly hôn xong chị có dự định sẽ về quê thôn Gò Đ, xã Hồng L, Hện S, tỉnh Tuyên Quang, nuôi con làm ăn sinh sống ở đó. Hiện tại bố mẹ chị có 02 nhà ở quê, bố mẹ và anh trai chị ở 1 nhà còn mẹ con chị sẽ ở 1 nhà. Hiện nay anh Ch đang lái xe cho Bộ Quốc Phòng chi nhánh 789.5 Tổng Công ty 789 Bộ Quốc Phòng; xã K, Hện T, tỉnh Vĩnh Phúc; Anh có hợp đồng lao động, thu nhập 12.500.000đ/tháng nhưng anh không cung cấp được cho Tòa án; Hiện tại anh và cháu H đang ở với bố mẹ anh, thường ngày bố mẹ anh trông nom, chăm sóc cháu H.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị Tr, anh Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Việt X, Hện V, tỉnh Vĩnh Phúc được biết: Về việc đăng ký kết hôn: Về việc đăng ký kết hôn: Chị Tr và anh Ch đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Hồng L, Hện S, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn xong chị Tr về làm dâu và ăn ở chung cùng gia đình anh Ch. Tình cảm vợ chồng ban đầu đầm ấm hạnh phúc nên anh chị đã có con chung. Đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo địa phương tìm hiểu và được biết là do anh Ch nghiện ma túy dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần, sứt mẻ. Đến cuối năm 2018 anh Ch phải đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 22 tháng tại trại cai nghiện số 4, thành phố Hà Nội. Đến tháng 8/2020 anh Ch đi cai nghiện về. Anh Ch về địa phương sinh sống nhưng vợ chồng anh chị không chung sống với nhau. Nay chị Tr có đơn ly hôn anh Ch. Quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án kiên trì hòa giải để anh chị về đoàn tụ trường hợp anh chị cương quyết ly hôn thì đề nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung: Anh Ch và chị Tr có 01 con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 07/01/2015. Hiện nay cháu H đang ở với anh Ch và ông bà nội. Ly hôn đề nghị Tòa án xem xét điều kiện kinh tế của anh chị để giao con bảo đảm điều kiện ăn ở, sinh hoạt học tập tốt nhất cho con. Hiện tại anh Ch sau khi cai nghiện về anh làm nghề tự do, thu nhập không ổn định. Còn chị Tr đi làm công ty nên thu nhập của chị Tr địa phương không nắm được. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức, đất canh tác: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Hện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi xét xử thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc chấp hành thời hạn xét xử đúng quy định. Tại phiên tòa, việc khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng quy định. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh Ch của chị Tr. Về con chung: Giao cho chị Tr được trực tiép nuôi dưỡng chăm sóc cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 07/01/2015; anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Tr. Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: Chị Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Hện Vĩnh Tường. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Phạm Minh Ch có hộ khẩu thường trú tại xã Việt Xuân, Hện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc theo qui định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Hện Vĩnh Tường.

[2] Về quan hệ Hôn nhân và gia đình giữa chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr và anh Nguyễn Phạm Minh Ch thấy rằng:

Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr và anh Nguyễn Phạm Minh Ch là cuộc hôn nhân tiến bộ và hợp pháp, xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của các bên nên cũng có một thời gian chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cãi chửi nhau. Dẫn đến tình cảm vợ chồng sứt mẻ, lạnh nhạt. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Tr và anh Ch đã đến mức căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Việc chị Tr xin ly hôn anh Ch và anh Ch cũng đồng ý ly hôn chị Tr là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Tr và anh Ch thừa nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 07/01/2015. Hiện nay cháu H đang ở với anh Ch. Xét thấy: Chị Tr làm công nhân có mức thu nhập ổn định; còn anh Ch trình bày hiện nay anh Ch đang lái xe cho Bộ Quốc Phòng chi nhánh 789.5 Tổng Công ty 789 Bộ Quốc Phòng; xã Kim Long, Hện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, thu nhập 12.500.000đ/tháng. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh vẫn không cung cấp được hợp đồng lao động, cũng như phiếu lương của 3 tháng gần nhất. Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Việt X được biết anh làm nghề tự do và không có thu nhập ổn định. Mặt khác do anh Ch đã từng nghiện ma túy phải đi cai nghiện bắt buộc do vậy để cho cháu H phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần và để đảm bảo điều kiện ăn ở, sinh hoạt, học tập tốt nhất cho cháu H nên giao cháu H cho chị Tr nuôi dưỡng chăm sóc là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Tr và anh Ch không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét và quyết định.

[4] Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Do chị Tr và anh Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét và quyết định.

[5] Về án phí: Chị Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr được ly hôn anh Nguyễn Phạm Minh Ch.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc Nguyễn Gia H, sinh ngày 07/01/2015. Hiện nay cháu H đang ở với anh Ch. Anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0000543 ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự Hện Vĩnh Tường. Chị Tr đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 31/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về