TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2022/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 21/2022/QĐXX - ST ngày 11 tháng 5 năm 2022, quyết định hoãn phiên Tòa số 19/2022/ QĐST- HNGĐ ngày 08/6/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị N, sinh năm 1982.
Hộ khẩu trường trú: Khu tập thể mx, tổ 05, phường PK, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
Nơi ở hiện nay: Số nhà 08, ngõ 149, đường NT, tổ 04, phường PK, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1980. Hộ khẩu thường trú: Khu tập thể mx, tổ 05, phường PK, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
(Anh T vắng mặt tại phiên Tòa, chị N có đơn xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 24/12/2021, cũng như tại bản tự khai, nguyên đơn là chị Mai Thị N trình bày: Chị và anh T kết hôn với nhau ngày 25/3/2005, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên đánh bạc bằng hình thức đánh lô đề và bị thua rất nhiều lần. Chị đã đứng ra trả nợ cho anh T rất nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi và tiếp tục lén lút chơi lô đề hơn nữa khả năng vì không trả được nợ nên chị đã phải bán nhà để trả nợ cho anh T. Hơn nữa anh T còn thường xuyên uống rượu say, không làm chủ được hành vi và xúc phạm danh dự chị dẫn đến việc vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung mâu thuẫn ngày càng tăng nên chị và anh T đã sống ly thân từ tháng 10/2021 đến nay. Chị xác định không còn tình cảm với anh T, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị xin được ly hôn anh T.
Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung Nguyễn Mai T1, sinh ngày 29/01/2007, Nguyễn Mai P, sinh ngày 24/3/2011. Chị xin nuôi hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Ttrình bày: Thời điểm kết hôn và hoàn cảnh kết hôn như chị N trình bày là đúng. Theo anh, mâu thuẫn vợ chồng là do anh thỉnh thoảng hay uống rượu nên dẫn đến việc vợ chồng xảy ra cãi vã và vợ chồng đã sống ly thân. Quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn chị N. Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung như chị N trình bày là đúng. Hiện hai cháu đang ở cùng với chị N, việc chị N xin nuôi hai con anh không đồng ý vì anh không đồng ý ly hôn chị N. Về tài sản và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Thị N được ly hôn anh Nguyễn Bá T. Về quan hệ con chung: Giao hai con chung Nguyễn Mai T1, sinh ngày 29/01/2007, Nguyễn Mai P, sinh ngày 24/3/2011 cho chị Mai Thị N trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục. Chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T và chị N có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị Mai Thị N phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà.
- Về thủ tục tố tụng:
Chị Mai Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo trình tự vắng mặt của nguyên đơn. Anh Nguyễn Bá T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh T.
- Về nội dung:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị N và anh Nguyễn Bá T kết hôn với nhau có đăng ký ngày 25/3/2005, tại Ủy ban nhân dân xã HT, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa chị N và anh T không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau, chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình, chị N và anh T đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2021 đến nay. Chị N kiên quyết xin ly hôn anh T và hơn nữa anh T không có biện pháp gì cải thiện quan hệ hôn nhân. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị N, xử cho chị N được ly hôn anh T.
[2]. Về quan hệ con chung: Chị N và anh T có hai con chung là Nguyễn Mai T1, sinh ngày 29/01/2007, Nguyễn Mai P, sinh ngày 24/3/2011. Quan điểm của chị N xin nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, hiện nay hai cháu đang ở với chị N. Chị N có thu nhập ổn định và nguyện vọng hai cháu muốn ở với mẹ, anh T không thể hiện quan điểm về việc nuôi con nên cần giao cho chị Mai Thị N trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu Nguyễn Mai T1, Nguyễn Mai P là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Chị N và anh T đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không giải quyết.
[4]. Về án phí: Chị N phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Thị N được ly hôn anh Nguyễn Bá T.
2. Về quan hệ con chung: Giao hai con chung Nguyễn Mai T1, sinh ngày 29/01/2007, Nguyễn Mai P, sinh ngày 24/3/2011 cho chị Mai Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T, chị N có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Chị Mai Thị N và anh Nguyễn Bá T đều không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không giải quyết.
4. Về án phí: Chị Mai Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị N đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0000509 ngày 01 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền chị N đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Mai Thị N và anh Nguyễn Bá T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 30/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 30/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về