Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 83/2022/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022, về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn bà Nguyn Thị Mỹ H trình bày:

Tôi và ông Trần Văn L có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày 02/3/2011 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện C. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, đến năm 2021 thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột và không có tiếng nói chung. Hiện nay vợ chồng đang sống ly thân với nhau từ năm 2021 cho đến nay. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, bản thân tôi không thể tiếp tục sống với ông L, nên tôi làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với ông L.

Về con chung: Quá trình chung sống, tôi và ông Trần Văn L có 01 con chung là cháu Trần Gia H, sinh ngày 30/9/2011, hiện nay cháu H đang ở với tôi và nếu Toà án giải quyết vợ chồng ly hôn thì tôi có nguyện vọng được nuôi cháu H đến tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hiện nay tôi đang làm công chức nhà nước có mức thu nhập ổn định, nên tôi đủ khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H đến tuổi thành niên và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Trn Văn L: Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu hợp lệ nhiều lần nhưng ông L không đến Tòa án làm việc. Qua xác minh tại địa phương nơi ông L đang cư trú, được biết ông L vẫn sinh sống tại địa phương nhưng cố tình lẩn tránh nên Tòa án không thể lấy lời khai của ông L được.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Quan hệ pháp luật giải quyết của vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, thủ tục giải quyết và việc thu thập chứng cứ theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng từ khi khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc phần tranh luận.

Về nội dung: Đề nghi ̣HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ H.

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với ông Trần Văn L.

Về con chung: Giao cháu Trần Gia H, sinh ngày 30/9/2011 cho bà Nguyễn Thị Mỹ H chăm sóc và nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của các đương sự, Viện kiểm sát, HĐXX xét thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Trần Văn L là đương sự vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Trần Văn L đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày 02/3/2011 tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện C. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Xét tình trạng hôn nhân giữa H và ông L qua lời trình bày của nguyên đơn, cũng như kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn T, xã E, huyện C. Thời gian chung sống với nhau, đến năm 2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và không có tiếng nói chung. Hiện nay vợ chồng đang sống ly thân với nhau từ năm 2021 cho đến nay và cháu H hiện đang sống chung với bà H. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nên bà H làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với ông L.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà H và ông L có 01 con chung là cháu Trần Gia H, sinh ngày 30/9/2011, hiện nay cháu H đang ở với bà H và bà H cũng có nguyện vọng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Huy.

Xét thấy cháu H từ trước đến nay đều do bà H chăm sóc nuôi dưỡng, ông L thường xuyên vắng mặt ở nhà, bà H là công chức nhà nước có thu nhập ổn định và đủ điều kiện nuôi con, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng xét xử cần giao cháu H cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cư vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghi ̣quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội .

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với ông Trần Văn L.

2. Về nuôi con: Giao cháu Trần Gia H, sinh ngày 30/9/2011 cho bà Nguyễn Thị Mỹ H chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được khấu trừ vao số tiền taṃ ưng an phi 300.000 đồng mà bà Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp theo biên lai thu tiền số 60AA/2021/0002196 ngày 06/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Bà Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp xong tiền án phí.

4. Thông báo quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về