TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 63/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 134/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2022 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Thu H, sinh năm 1989
Bị đơn: Anh Giang Thanh T, sinh năm 1990.
Đều trú tại: thôn V, xã TH, huyện Y, tỉnh Thái Bình.
(Chị H, anh T đều đề nghị xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, đơn xin xử vắng mặt chị H trình ày:
Chị và anh T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2014 tại UBND xã TH, huyện Y, tỉnh Thái Bình, sau khi kết hôn anh chị chung sống và làm ăn tại địa phương. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là anh T thường xuyên chơi ời, không tu chí làm ăn và quan hệ ất chính với nhiều người phụ nữ khác, chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không chịu thay đổi, anh chị đã sống ly thân, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.
Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Giang Thanh P, sinh ngày 06/10/2014 và Giang Thành N, sinh ngày 19/6/2017, chị đề nghị được trực tiếp nuôi cháu P, anh T trực tiếp nuôi cháu N, hai ên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau Về tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại ản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, anh T trình bày: Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2014 tại UBND xã TH, huyện Y, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống làm ăn tại địa phương, do tính tình không hợp, mặt khác anh cũng có chơi bời và có quan hệ bên ngoài với người phụ nữ khác nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, nay chị H xin ly hôn anh đồng ý.
Về con chung: Anh và anh H có 02 con chung là Giang Thanh P, sinh ngày 06/10/2014 và Giang Thành N, sinh ngày 19/6/2017, anh đề nghị được trực tiếp nuôi cháu N, chị H trực tiếp nuôi cháu P, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung: Anh và chị H không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do công việc bận mải, không sắp xếp được thời gian nên nên anh có đơn xin được giải quyết và xét xử vắng mặt.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt, chị H vẫn giữ yêu cầu trên, không thay đổi và bổ sung gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Các đương sự đều đề nghị xử vắng mặt, vì vậy căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị H và anh T là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân chính là do anh T chơi bời và có lối sống không lành mạnh dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị H và anh T đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị H được ly hôn anh T.
[3]. Về con chung: Chị H và anh T có 02 con chung là Giang Thanh P, sinh ngày 06/10/2014 và Giang Thành N, sinh ngày 19/6/2017, chị H và anh T đều thể hiện nguyện vọng, chị H trực tiếp nuôi cháu P, anh T trực tiếp nuôi cháu N, mặt khác cháu P đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng xin được ở với chị H, vì vậy cần thiết giao cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu N cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau là phù hợp [4]. Về tài sản chung: Chị H và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 về Án phí, Lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị Thu H được ly hôn anh Giang Thanh T.
2. Về con chung: Giao con chung là Giang Thanh P, sinh ngày 06/10/2014 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Giang Thành N, sinh ngày 19/6/2017 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, hai ên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, hai ên đều có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung không ai được phép ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí tại iên lai số 0004168 ngày 23/8/2022 tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị H đã nộp xong án phí.
5.Về quyền kháng cáo: Chị H và anh T có quyền kháng cáo ản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 63/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 63/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về