Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 56/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Phương A, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Minh D, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Phương A trình bày: Chị và anh Bùi Minh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 25/02/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn cả hai vợ chồng đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, đến năm 2017 thì hai vợ chồng về nước. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi chửi nhau. Từ tháng 5/2021 đến nayvợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Phương A đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Minh D.

Về con chung: Chị Nguyễn Phương A khai, chị và anh D có hai con chung, các cháu tên là Bùi Tường V và Bùi Hải Đ, đều sinh ngày 04/01/2019. Hiện nay cả hai cháu đang ở với chị Phương A. Chị Phương A đề nghị được nuôi dưỡng cả hai cháu, yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng mỗi cháu là 1.500.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị Nguyễn Phương A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Bùi Minh D đến Toà án để viết bản khai nhưng anh D đã không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh D. Tại phiên tòa, anh D khai: anh và chị Phương A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 25/02/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Sau khi kết hôn cả hai vợ chồng đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, đến năm 2017 thì hai vợ chồng về nước. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi chửi nhau. Nay chị Phương A xin ly hôn, anh D cũng đồng ý.

Về con chung: Anh Bùi Minh D khai, anh và chị Phương A có hai con chung, các cháu tên là Bùi Tường V và Bùi Hải Đ, đều sinh ngày 04/01/2019, anh D đề nghị mỗi người nuôi một cháu, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh D cũng không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Phương A đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với D, giao hai cháu V và Đ cho chị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng, anh D cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng mỗi cháu 1.500.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Phương A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Bùi Minh D đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để đến Tòa án tham gia phiên họp hòa giải nhưng anh D không có mặt nên không tiến hành hoà giải được vụ án.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Phương A và anh Bùi Minh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi chửi nhau. Từ tháng 5/2021 đến nay vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị Phương A được ly hôn với anh D là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Nguyễn Phương A và anh Bùi Minh D đều thừa nhận vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Bùi Tường V và Bùi Hải Đ, đều sinh ngày 04/01/2019. Mặt khác, các cháu được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định hai cháu V và Đ là con chung của chị Phương A và anh D. Do các cháu chưa đủ 36 tháng tuổi nên theo quy định tại khoản 3, Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình phải giao cho chị Phương A trực tiếp nuôi. Mức cấp dưỡng nuôi con chị Phương A yêu cầu là phù hợp với điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trung bình ở địa phương nên được chấp nhận toàn bộ.

[4]. Về tài sản: Chị Nguyễn Phương A và anh Bùi Minh D không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Phương A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật. Anh Bùi Minh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.Điều 6, khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Phương A và anh Bùi Minh D.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Bùi Tường V và Bùi Hải Đ, đều sinh ngày 04/01/2019 là con chung của chị Phương A và anh D. Giao hai cháu V và Đ cho chị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng. Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phương A mỗi tháng mỗi cháulà 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), hai cháu là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) một tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 7/2021cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Anh D không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Phương A.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Phương A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009342 ngày 22/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị Phương A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Bùi Minh D phải chịu300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Phương A và anh Bùi Minh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về