Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 266/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lò Thị H, sinh năm 1990 (Có đơn xin xử vắng mặt)

Bị đơn Anh Đàm Văn T, sinh năm 1986 (Vắng mặt lần thứ 2)

Đều trú tại: thôn B, xã N, huyện Y, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án chị H trình bày: Chị và anh T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2008 tại UBND xã N, huyện Y, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại địa phương, vợ chồng chung sống đến năm 2012 tthì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, mặt khác anh T không chịu tu chí làm ăn và đã từng bị kết án về tội phạm ma túy. Vợ chồng đã sống ly thân từ lâu, mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, nếu có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Đàm Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2008, hiện con chung đang ở cùng anh T, chị đề nghị giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án anh T không đến làm việc, bố đ anh T là ông Đàm Văn N xác nhận anh T đã biết Tòa án giải quyết vụ án, nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng do dịch bệnh và công việc nên không thể đến Tòa án làm việc được. Quan điểm của anh T là đồng ý ly hôn chị H và đề nghị được trực tiếp nuôi con chung, còn việc cấp dưỡng nuôi con là tùy chị H.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử và nghị án đều đúng quy định của pháp luật, việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Lò Thị H được ly hôn anh Đàm Văn T. Về con chung: Giao con Đàm Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2008 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên. Về tài sản chung, nợ chung : Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xử vắng mặt, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi bổ sung gì. Bị đơn là anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn c vào lời khai của ông Đàm Văn N và biên bản xác minh tại chính quyền địa phương có trong hồ sơ để giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên c u các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần th 2 nhưng vẫn vắng, nguyên đơn có đơn xin xử vắng mặt vì vậy căn c Điều 228, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị H và anh T là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn c xác định vợ chồng chị H và anh T đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị H được ly hôn anh T.

[3]. Về con chung: Chị H và anh T có 01 con chung là Đàm Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2008, hiện tại con chung đang ở với anh T, chị H đồng ý giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung ở cùng anh T. Vì vậy cần thiết giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, buộc chị H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung thành niên.

[4]. Về tài sản chung: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn c vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lò Thị H được ly hôn anh Đàm Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung là Đàm Quốc Đ, sinh ngày 10/9/2008 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T mỗi tháng 1.000.000 cho đến khi con chung thành niên. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị H có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ng án phí tại biên lai số 0004021 ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị H còn phải chịu 300.000 đồng án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị H và anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngàỳ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về