Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG LÔ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 79/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2021 về việc "Tranh chấp Hôn nhân và gia đình", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2021/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Đ, sinh ngày 07/11/1982 Nơi ĐKHKTT: thôn Li, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đa chỉ hiện nay: thôn V, xã N, thị xã M, tỉnh Hưng Yên, vắng mặt.

Bị đơn: anh Hoàng Văn Đ, sinh ngày 21/10/1992 Nơi cư trú: thôn Li, xã N, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 04/6/2021 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Đ trình bày:

Chị kết hôn với anh Đ ngày 14/5/2014, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Nhân Đạo. Sau khi kết hôn, chị về chung sống cùng gia đình anh Đ. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng nghi ngờ không tin tưởng nhau, anh Đ mải chơi từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau và anh Đ nhiều lần đánh chị. Năm 2018 chị về nhà bố, mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ cho đến nay. Chị xác Đ tình cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: chị và anh Đ có 01 con chung là Hoàng Văn Long, sinh ngày 24/10/2014. Hiện nay cháu đang ở cùng anh Đ. Ly hôn, chị đề nghị để anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Long và chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đ.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2021 và biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là anh Hoàng Văn Đ trình bày:

Anh cũng xác Đ về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống và nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn như chị Đ trình bày là đúng. Nay anh cũng xác Đ tình cảm vợ chồng không còn nên chị Đ xin ly hôn anh hoàn toàn nhất trí.

Về con chung: anh xác Đ như chị Đ trình bày là đúng. Ly hôn anh đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Long và không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Lô phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án cho đến giai đoạn Hội đồng xét xử, nghị án đã thực hiện đầy đủ, trình tự đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử cho chị Đ và anh Đ được ly hôn; giao cho anh Đ nuôi dưỡng cháu Hoàng Văn Long, chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đ; về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức do chị Đ, anh Đ không đề nghị giải quyết nên không xem xét; về án phí, chị Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện, tài liệu kèm theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Đ và các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án. Xác Đ đây là quan hệ tranh chấp Hôn nhân và gia đình “Xin ly hôn và nuôi con chung …”. Bị đơn là anh Hoàng Văn Đ có địa chỉ tại xã Nhân Đạo, huyện Sông Lô nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Sông Lô theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Đi với chị Đ là nguyên đơn mặc dù vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên chị đã có đơn đề nghị tòa án giải quyết vắng mặt đúng theo quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Đ.

[2] Nội dung vụ án: cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Đ và anh Hoàng Văn Đ là cuộc hôn nhân hợp pháp, xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Quá trình vợ chồng chung sống do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng nghi ngờ không tin tưởng nhau nên từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên đánh, cãi chửi nhau. Năm 2018 chị Đ bỏ về nhà bố, mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ cho đến nay. Nay chị Đ và anh Đ cùng xác Đ tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn. Xét đề nghị của chị Đ và anh Đ là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Xét đề nghị của chị Đ và anh Đ về việc để anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Long, chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Do vậy cần căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Long. Xác nhận sự tự nguyện của anh Đ không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: chị Đ và anh Đ không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: cho chị Nguyễn Thị Đ và anh Hoàng Văn Đ được ly hôn.

Giao cho anh Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hoàng Văn Long, sinh ngày 24/10/2014. Xác nhận sự tự nguyện của anh Đ không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Sau khi ly hôn, chị Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Tài sản chung, tài sản riêng, công sức, công nợ: Chị Đ và anh Đ cùng không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai số: AA/2017/0009251 ngày 04/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án anh Đ có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Chị Đ vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Lô - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về