Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 33/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị H, sinh năm 1990; trú tại: Thôn P, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; trú tại: Thôn P, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 17/3/2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Hà Thị H trình bày:

Chị kết hôn với anh T ngày 06/02/2012, trước khi cưới được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã L trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc gì. Sau khi cưới chị về gia đình anh T làm dâu, đến năm 2016 vợ chồng ra ở riêng và ở nhờ trên nhà, đất của bố mẹ anh T. Quá trình chung sống đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh T không quan tâm đến vợ con, anh đi làm nhưng không đưa tiền về cho chị để nuôi con và trang trải cuộc sống gia đình, có lần anh T đánh đập chị. Ngoài ra, mẹ anh T có lần nói anh T có quan hệ bất chính với người khác. Chị và anh T có làm đơn ly hôn một lần, đơn do anh T viết và được cả hai cùng ký rồi đem ra xã, sau đó xã bảo đem về trưởng thôn nộp giải quyết, trưởng thôn đã hòa giải và hai vợ chồng đã quay về với nhau nhưng cuộc sống của hai vợ chồng không khá hơn được. Đến năm 2018, vợ chồng chị sống ly thân từ đó cho đến nay, mặc dù được được hai bên gia đình giàn xếp nhưng không được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 22/01/2013 và Nguyễn Hà Việt T, sinh ngày 03/02/2015; Hiện hai cháu đang ở cùng anh T và gia đình. Ly hôn, chị xin nuôi cháu Nguyễn Thị Quỳnh A, để anh T nuôi cháu Nguyễn Hà Việt T và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T: Đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không có mặt nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai và hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch thụ lý vụ án hôn nhân gia đình về việc ly hôn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Từ khi thu lý vụ án đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thông báo thụ lý vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ theo đúng quy định pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi khai mạc phiên toà đến khi nghị án, đảm bảo vô tư, khách quan, đúng quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H với anh T. Giao mỗi người nuôi một con, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét thấy:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chị Hà Thị H đối với bị đơn là anh Nguyễn Văn T. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng giải quyết vụ án: Ngày 17/3/2021 chị Hà Thị H có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Vì vậy pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã tiến hành làm việc với gia đình anh T thì hiện nay anh T đang đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về và liên lạc với gia đình. Tòa án đã giao các văn bản giấy tờ cho gia đình nhận thay anh T và gia đình đã thông báo giấy báo cho anh T tuy nhiên bị đơn vẫn không có mặt nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai, hòa giải được. Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn anh Nguyễn Văn T vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện việc kết hôn giữa chị H và anh T trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện L. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T là hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng, theo chị H thì ban đầu hai vợ chồng sống hòa thuận không có mâu thuẫn gì, nhưng đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, anh T không quan tâm đến vợ con, anh đi làm nhưng không đưa tiền về cho chị để nuôi con và trang trải cuộc sống gia đình, có lần anh T đánh đập chị và hai vợ chồng đã được thôn hòa giải nhưng không được. Đến năm 2018 hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ đó cho đến nay. Qua xác minh tại địa phương và gia đình anh T thì vợ chồng chị H anh T thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, về kinh tế. Năm 2018, anh T đã viết đơn xin ly hôn ra xã, sau đó đã được thôn và gia đình hòa giải nhưng cũng không sống được lâu với nhau nên hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Việc hai vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, không cùng chung sống nên không thể quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Đó là nguyên nhân của những mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh và ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[5]. Về con chung: Vợ chồng chị H, anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 22/01/2013 và Nguyễn Hà Việt T, sinh ngày 03/02/2015, hiện nay cả hai cháu đang ở cùng anh T và gia đình anh T, ly hôn chị H đề nghị được nuôi cháu Nguyễn Thị Quỳnh A, anh T nuôi cháu Nguyễn Hà Việt T. Hiện nay, chị H, anh T đang đi làm và có thu nhập ổn định nên giao cho mỗi người nuôi một cháu, do cháu Nguyễn Thị Quỳnh A là con gái và nguyện vọng của cháu cũng muốn được ở cùng mẹ nên để đảm bảo sự phát triển về tâm sinh lý và sự chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ cũng như quyền lợi của các cháu cần thiết giao cháu Nguyễn Thị Quỳnh A cho chị H, giao cháu Nguyễn Hà Việt T cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị H không đề nghị anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung, do mỗi người nuôi một cháu nên không ai phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

[6]. Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.

[7]. Về án phí: Chị Hà Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, 56, 57, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1, 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hà Thị H với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao cho chị Hà Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 22/01/2013; anh Nguyễn Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Hà Việt T, sinh ngày 03/02/2015. Không ai phải đóng góp, cấp dưỡng nuôi con chung. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.

Về án phí: Chị Hà Thị H phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0001146 ngày 30/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch. Chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về