Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 467/2021/TLST- HNGĐ ngày 14/12/2021, về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 21/4/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 06/5/2022, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Đàm Cao T, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Thôn C, xã Đ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Bị đơn: Chị Phạm Phan Ngọc M, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Số nhà **, đường H, tổ 5, phố Gát, phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

(Anh T có mặt; chị M vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn trong vụ án là anh Đàm Cao T trình bày nội dung như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đàm Cao T và chị Phạm Phan Ngọc M kết hôn với nhau dựa trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, không bị ép buộc gì và được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục, được đăng ký kết hôn tại UBND phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ ngày 27/3/2015. Sau khi kết hôn hai bên thuê nhà sinh sống, làm ăn tại thành phố Hà Nội đến khi con chung là cháu Ngọc Nhi được hơn 01 tuổi thì chị M bỏ về gia đình mẹ đẻ chị M ở tại phố Gát, phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ sinh sống từ đó cho đến nay. Nguyên nhân chị M bỏ nhà đi là do trong cuộc sống vợ chồng luôn mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống trong mọi lĩnh vực. Kể từ khi chị M về nhà mẹ đẻ chị ở Anh T nhiều lần khuyên bảo, động viên chị M quay về, nhưng chị M không về và cũng không quan tâm, hỏi thăm gì đến Anh T và con chung; vợ chông sống ly thân từ đó cho đến nay, đã chấm dứt mọi quan hệ. Nay Anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đề nghị được ly hôn với chị M.

2. Về con chung: Anh Đàm Cao T xác định anh và chị Phạm Phan Ngọc M có 01 con chung là cháu: Đàm Ngọc Nhi, sinh ngày 09/11/2015; hiện nay Anh T đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn Anh T xin được nuôi con và không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, công nợ và công sức: Anh Đàm Cao T xác định vợ chồng không có gì, nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn trong vụ án là chị Phạm Phan Ngọc M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng chị M cố tình vắng mặt, không có lý chính đáng, nên không có bản tự khai và quan điểm của chị M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự,

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự là vắng mặt không có lý do.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử cho Anh T được ly hôn chị M.

- Về con chung: Giao cho anh Đàm Cao T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu: Đàm Ngọc Nhi, sinh ngày 09/11/2015. Chị M không phải cấp dưỡng nuôi con vì Anh T không yêu cầu.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức: Anh T không đề nghị giải quyết.

- Về án phí: Anh T phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình; Bị đơn là chị Phạm Phan Ngọc M, có hộ khẩu thường trú tại phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Xét về sự vắng mặt của bị đơn: Chị Phạm Phan Ngọc M đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng; Các văn bản tố tụng của Tòa án được chị Phạm Hoài Thủy là em gái ruột và chung sống cùng nhà với chị M nhận thay, chị Thủy có cam kết là đã chuyển giao ngay tận tay các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị M theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chị M vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị M là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đàm Cao T và chị Phạm Phan Ngọc M, đăng ký kết hôn ngày 27/3/2015, tại UBND phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì dựa trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, không ai bị ép buộc. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về tình cảm vợ chồng: Tại phiên tòa, Anh T trình bày: Sau khi kết hôn hai bên thuê nhà sinh sống, làm ăn tại thành phố Hà Nội đến khi con chung là cháu Ngọc Nhi được hơn 01 năm tuổi thì chị M bỏ và về gia đình mẹ đẻ chị M ở tại phố Gát, phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ sinh sống từ đó cho đến nay. Nguyên nhân chị M bỏ nhà đi là do trong cuộc sống vợ chồng luôn mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống trong mọi lĩnh vực. Kể từ khi chị M về nhà mẹ đẻ chị ở Anh T nhiều lần khuyên bảo, động viên chị M quay về, nhưng chị M không về và cũng không quan tâm, hỏi thăm gì đến Anh T và con chung; vợ chông sống ly thân từ đó cho đến nay, đã chấm dứt mọi quan hệ. Nay Anh T xác định tình cảm vợ chồng thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đề nghị được ly hôn với chị M.

Xét yêu cầu xin ly hôn của Anh T, thấy rằng: Tại biên bản xác minh của Tòa án; Đại diện khu dân cư nơi chị M cư trú cung cấp thông tin: Hiện nay chị M đang sinh sống tại nhà mẹ đẻ của chị M tại số nhà 873, đường Hùng Vương, tổ 5, phố Gát, phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì. Mặt khác, tại Biên bản làm việc của Tòa án tại gia đình nơi chị M đang cư trú, sinh sống thì chị Phạm Hoài Thủy là em gái ruột chị M đang cùng ở với chị M cung cấp thông tin: Hiện chị M đang ở cùng nhà, chị Thủy đã chuyển giao cho chị M các văn bản tố tụng của Tòa án mà chị Thủy đã nhận thay. Như vậy thể hiện chị M đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng cố tình không đến Tòa án để giải quyết vụ án, mặc dù chị M biết rõ việc Anh T xin ly hôn. Như vậy chị M gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án; mặc dù chị M biết Anh T đang nuôi con chung, nhưng chị M cũng không quan tâm gì. Do vậy, cần xử cho Anh T được ly hôn với chị M là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Xét thấy phía bị đơn là chị M vắng mặt tại phiên tòa. Hơn nữa hiện nay Anh T đang trực tiếp nuôi con chung từ khi vợ chồng sống ly thân nên cần giao con chung là cháu: Đàm Ngọc Nhi, sinh ngày 09/11/2015 cho Anh T được quyền nuôi dưỡng và chị M không phải cấp dưỡng nuôi con vì Anh T không yêu cầu, là phù hợp pháp luật.

[4]. Về tài sản chung, công nợ và công sức: Phía Anh T xác định vợ chồng không có gì, nên không đề nghị giải quyết. Nhưng do chị M vắng mặt, nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[5]. Về án phí: Anh T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định là phù hợp pháp luật.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đàm Cao T.

[1]. Xử cho anh Đàm Cao T được ly hôn với chị Phạm Phan Ngọc M.

[2]. Về con chung: Giao cho anh Đàm Cao T được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu: Đàm Ngọc Nhi, sinh ngày 09/11/2015. Chị M không phải cấp dưỡng nuôi con vì Anh T không yêu cầu.

[3]. Về tài sản chung, công nợ và công sức: Anh Đàm Cao T không đề nghị Tòa án giải quyết, phía chị M vắng mặt nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4]. Về án phí: Anh Đàm Cao T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận Anh T đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0009875 ngày 09/12/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về