TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 180/2023/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 24 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 167/2023/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 156/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1995; Nơi ĐKHKTT: Xóm Y, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; nơi ở hiện nay: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang L, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm Y, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; hiện đang ở Đài Loan; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quang N, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; cùng địa chỉ: Xóm Y, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày:
Chị và anh Nguyễn Quang L kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An vào ngày 15/5/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau một thời gian. Đến năm 2018 thì anh L đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, thời gian đầu sang Đài Loan vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc hỏi thăm quan tâm lẫn nhau. Sau này do cuộc sống xa cách và quan điểm sống khác nhau, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân, hiện tại chị B và anh L không còn liên lạc với nhau. Nay chị B thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quang L.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Quang L có 01 con chung là cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ, sinh ngày 05/12/2011 hiện tại cháu Đ đang ở cùng ông bà nội là ông Nguyễn Quang N và bà Nguyễn Thị H. Khi vợ chồng ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu Đ cho chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Quang L, do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên chị Nguyễn Thị B không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh L ở Đài Loan. Theo chị B trình bày anh L vẫn thường xuyên liên lạc về với bố mẹ đẻ là ông Nguyễn Quang N và bà Nguyễn Thị H; địa chỉ cư trú: Xóm Y, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An và ông N, bà H biết địa chỉ cụ thể của anh L ở Đài Loan; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đề làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho ông Nguyễn Quang N và bà Nguyễn Thị H (là bố mẹ đẻ của anh Nguyễn Quang L) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án để ông N, bà H thông báo cho anh L và đề nghị anh L nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị B. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của anh L trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, anh L không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quang N và bà Nguyễn Thị H (bố, mẹ đẻ của anh Nguyễn Quang L) trình bày:
Ông N, bà H là bố mẹ đẻ của anh Nguyễn Quang L. Cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ, sinh ngày 05/12/2011 là cháu nội của ông bà và cháu Đ sống với ông bà từ năm 2018 đến nay. Nếu chị B và anh L ly hôn thì ông bà không yêu cầu chị B và anh L trả tiền công chăm sóc nuôi dưỡng cháu Đ từ trước đến nay và xin được vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Quang L được ly hôn. về con chung: Giao cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ, sinh ngày 05/12/2011 cho chị B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ba không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu; về án phí: Chị Ba phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình có đương sự hiện đang ở Đài Loan. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điềm c khoản 1 Điều 37, Điều 40 và Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Quang L hiện đang ở Đài Loan, không có địa chỉ cụ thể. Ông Nguyễn Quang N, bà Nguyễn Thi H1 (là bố mẹ đẻ của anh L) đã thông báo cho con trai về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu ông N, bà H1 cung cấp địa chỉ cụ thể của anh L ở Đài Loan nhưng ông N, bà H1 không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của anh L trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị B nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị B vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quang N, bà Nguyễn Thị H vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Quang L vắng mặt. Căn cứ điềm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.
[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:
[3.1] về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Quang L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện; có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc một thời gian thì đã phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, anh L đang sinh sống làm việc tại Đài Loan, chị B ở Việt Nam, hai bên không còn liên lạc, quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Chị B có nguyện vọng được ly hôn với anh L. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị B và anh L không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị B được ly hôn với anh L là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ, sinh ngày 05/12/2011; hiện nay, cháu Đ đang ở với ông bà nội. Ly hôn chị B đề nghị Tòa án giao cháu Đ cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn. Xét thấy, nguyện vọng của chị B là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của con chung và điều kiện thực tế vì hiện nay anh L đang ở nước ngoài và cố tình giấu địa chỉ. Về cấp dưỡng nuôi con, chị B chưa yêu cầu và anh L cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về công sức trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ: Ông Nguyễn Quang N, bà Nguyễn Thị H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ba không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị B phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị B.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B được ly hôn với anh Nguyễn Quang L.
- Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Nguyễn Quang Hoàng Đ, sinh ngày 05/12/2011 cho chị Nguyễn Thị B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị B chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Quang L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc chị Nguyễn Thị Ba p chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0012857 ngày 12 tháng 5 năm 2023.
3. Chị Nguyễn Thị B, ông Nguyễn Quang N và bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày nhận được bản án; anh Nguyễn Quang L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 180/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 180/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về