Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 17/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ–ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.

Hôm nay, ngày 30/6/2021 tại trụ sở TAND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, TAND huyện Phù Ninh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 07/2021/ TLST - HNGĐ ngày 07 tháng 1 năm 2021 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXX-ST ngày 18/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thanh  M, SN 1986.

Địa chỉ: Khu 2, xã Trung G, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

Hôm nay, có mặt.

Bị đơn: Anh Ngô Quang H, SN 1988.

Địa chỉ: Khu 2, xã Trung G, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

Hôm nay, có mặt.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách huyện Phù Ninh.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Đoàn Thị Thu H - Chức vụ: Phó Giám đốc PGD Ngân hàng CSXH huyện Phù Ninh.

- Anh Nguyễn Hoàng C, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Khu 10, xã Đỗ X, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

- Anh Lê Văn H.

Địa chỉ: Khu 1, xã Hà L, TX. Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.

- Anh Trần Văn V, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Khu 2, xã Ph H, TX Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.

- Chị Nguyễn Thanh B, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Khu 9, xã Ph H, TX. Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, đều vắng mặt (Có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thanh M trình bày: Chị và anh Ngô Quang H có đăng ký kết hôn ngày 30/01/2012 tại UBND xã Trung G, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Sau khi cưới, hai vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc, đến ngày 19/11/2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống không hợp nhau. Hiện vợ chồng đang sống ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là:

+ Ngô Xuân Tr, sinh ngày 25/9/2012.

+ Ngô Thị Phương H, sinh ngày 11/01/2015.

Khi ly hôn quan điểm của chị là nếu ai là người trực tiếp nuôi con thì sẽ nuôi cả hai cháu và bên kia sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay chị đồng ý để anh H được nuôi dưỡng cháu Trường, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

- Về tài sản chung: Vợ chồng xác định không có.

- Về nợ chung: Hiện vợ chồng không cho ai vay. Đối với khoản tiền vay chị xác nhận hiện vợ chồng chỉ có một khoản nợ chung của Ngân hàng chính sách huyện Phù Ninh số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), vay theo chương trình nước sạch.

Đối với các khoản nợ cá nhân mà anh H trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay quan điểm của chị như sau: Chị thừa nhận vợ chồng có các khoản nợ này nhưng sau đó anh H đã tự lấy tiền lương của mình và bán một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình để trả các khoản nợ này nên hiện nay các khoản nợ này không còn nữa. Nếu ly hôn đối với khoản nợ của Ngân hàng chính sách chị đề nghị chia đôi.

- Về công sức đóng góp: Không có.

Bị đơn là anh Ngô Quang H trình bày: Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống như chị M trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc, đến khoảng năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị  M có mối quan hệ tình cảm với người khác. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2020 đến nay. Nay chị  M xin ly hôn anh cũng nhất trí.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là:

+ Ngô Xuân Tr, sinh ngày 25/9/2012.

+ Ngô Thị Phương H, sinh ngày 11/01/2015.

Khi ly hôn quan điểm của anh là mỗi người nuôi một cháu, anh xin nuôi cháu Ngô Xuân Tr, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

- Về tài sản chung: Vợ chồng xác định không có.

- Về nợ chung: Hiện vợ chồng không cho ai vay và còn có các khoản nợ chung gồm:

+ Nợ Ngân hàng chính sách huyện Phù Ninh số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), vay theo chương trình nước sạch.

+ Anh Nguyễn Hoàng C, địa chỉ khu 10, xã Đỗ Xn, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) vay tháng 3/2020.

+ Anh Lê Văn H, địa chỉ Khu 1, xã Hà L, Tx. Phú Thọ số tiền 2.500.000đ ( Hai triệu năm trăm nghìn đồng) nợ tiền cửa gỗ.

+ Anh Trần Văn V, địa chỉ khu 2, xã Phú H, Tx Phú Thọ số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) tiền công thợ xây.

+ Chị Nguyễn Thanh B, địa chỉ Khu 9, xã Phú H, TX. Phú Thọ số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) tiền cát gạch xi.

Đây là các khoản nợ khi anh chị sửa nhà tại xã Phú Lộc do khó khăn về kinh tế nên đã nợ lại những người trên các khoản nợ này.

Khi ly hôn anh đề nghị Tòa án xác định tất cả các khoản nợ trên là nợ chung của hai vợ chồng và đề nghị chia đôi số nợ này mỗi người có nghĩa vụ trả một nửa.

- Về công sức đóng góp: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Nguyễn Thanh  M có yêu cầu xin ly hôn với anh Ngô Quang H và đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, nợ chung theo quy định. Do đó, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh theo quy định tại khoản 1 điều 28; điểm a, khoản 1 điều 35 BLTTDS.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị  M và anh H kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trung G, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ là phù hợp với Luật hôn nhân gia đình Việt Nam. Chị  M trình bày vợ chồng mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Anh H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do chị  M có mối quan hệ tình cảm với người khác. Hiện nay anh chị đã sống ly thân từ tháng 12/2020 chị  M đã về ở nhà bố mẹ đẻ chị ở Khu 8, xã Phú Lộc, Phù Ninh, Phú Thọ. Quá trình giải quyết vụ án, anh H không đồng ý ly hôn. Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để anh chị về đoàn tụ cùng nhau nhưng đều không thành. Tại phiên tòa hôm nay chị  M vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn, anh H cũng nhất trí vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, có thể khẳng định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị  M và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần xử cho anh chị được ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Cả hai vợ chồng xác nhận có hai con chung là:

+ Ngô Xuân Tr, sinh ngày 25/9/2012.

+ Ngô Thị Phương H, sinh ngày 11/01/2015.

Quá trình giải quyết vụ án, chị  M có quan điểm nếu ly hôn thì ai là người trực tiếp nuôi con sẽ nuôi cả hai cháu và bên kia sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên phía anh H có quan điểm nếu phải ly hôn thì đề nghị Tòa án giao cho mỗi người nuôi một cháu và anh xin nuôi cháu Trường. Tại phiên tòa hôm nay, chị  M cũng đồng ý để anh H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trường, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cùng ai. Xét thấy đây là sự thỏa thuận của các đương sự, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Trường nên cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay cả hai anh chị đều xác nhận là không có nên hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết.

[5] Về nợ chung: Hiện cả hai anh chị đều xác nhận vợ chồng không cho ai nợ. Đối với khoản tiền vay, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh chị chỉ thống nhất được một khoản nợ chung là của Ngân hàng chính sách huyện Phù Ninh với số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) vay theo chương trình nước sạch.

Đối với các khoản nợ mà anh H trình bày là nợ khi vợ chồng sửa nhà tại xã Phú lộc gồm: Anh Nguyễn Hoàng C: 10.000.000 đồng; anh Lê Văn H: 2.500.000 đồng (nợ tiền cửa gỗ); anh Trần Văn V: 3.000.000 đồng (tiền công thợ xây) và chị Nguyễn Thanh B: 3.000.000 đồng (tiền cát gạch xi): Quá trình giải quyết vụ án, chị  M không thừa nhận hiện vợ chồng còn nợ các khoản tiền. Tuy nhiên, chị thừa nhận đúng là khi anh chị sửa nhà tại xã Phú Lộc, anh chị còn nợ những người trên với số tiền như anh H trình bày, nhưng sau đó anh H đã dùng tiền lương của anh H và bán một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình để trả các khoản tiền này. Phía anh H cũng thừa nhận, anh có bán một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình nhưng không phải để trả các khoản nợ này mà là để trả tiền lãi cho Ngân hàng (vì thời điểm đó anh chị còn nợ Ngân hàng 250.000.000 đồng, sau khi bán ngôi nhà tại xã Phú Lộc đã trả được khoản nợ này). Tại phiên tòa hôm nay chị  M cũng thừa nhận trước đó vợ chồng có nợ của Ngân hàng số tiền 250.000.000 đồng, tiền lãi hàng tháng do anh H trả, chị không trả khoản nào. Đồng thời chị cũng không đưa tiền để anh H trả các khoản nợ của những người vay trên và cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào chứng  M việc anh H đã trả các khoản tiền nợ trên. Mặt khác, Tòa án cũng đã tiến hành lấy lời khai của anh Chu, anh Huy, anh Viễn và chị Bình thì các anh chị đều khẳng định vào khoảng đầu năm 2020 anh chị H –  M có sửa chữa nhà và có vay tiền hoặc nợ tiền công xây dựng, tiền mua vật liệu xây dựng của các anh chị và hiện nay các khoản nợ này anh chị H  M chưa trả.

Do đó, có căn cứ để xác định các khoản nợ cá nhân mà anh H trình bày trong quá trình giải quyết vụ án là nợ chung của vợ chồng.

Từ các nhận định trên cần xác nhận hiện vợ chồng anh chị H –  M còn có các khoản nợ chung với tổng số tiền là 38.500.000 đồng. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ như nhau trong việc trả các khoản nợ chung. Do có, cần buộc anh H, chị  M mỗi người phải có nghĩa vụ trả một nửa khoản nợ chung. Hiện nay theo cung cấp của Ngân hàng chính sách xã hội huyện Phù Ninh thì dư nợ gốc còn lại là 20.000.000 đồng và tiền lãi đã trả đều hàng tháng, tính đến ngày 30/6/2021 thì tiền lãi là 69.010 đồng. Vì Hợp đồng vay theo chương trình nước sạch đến ngày 16/6/2024 mới đến hạn trả nợ nên HĐXX chỉ giao nghĩa vụ trả nợ cho một bên, khi hết thời hạn vay theo hợp đồng bên nào được Tòa án giao trả nợ thì phải có nghĩa vụ trả khoản nợ gốc và nợ lãi phát sinh cho Ngân hàng.

Đối với các khoản nợ của anh C, anh H, anh V và chị B các anh chị đều không yêu cầu anh H và chị  M phải trả lãi. Xét thấy đây là sự tự nguyện của các đương sự và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Như vậy, cần giao cho anh H có nghĩa vụ trả các khoản nợ cụ thể như sau:

- Anh Nguyễn Hoàng C: 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), không phải trả lãi.

- Anh Lê Văn H: 2.500.000 đồng ( Hai triệu năm trăm nghìn đồng), không phải trả lãi.

- Anh Trần Văn V: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), không phải trả lãi.

- Chị Nguyễn Thanh B: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), không phải trả lãi.

Giao cho chị Nguyễn Thanh  M có nghĩa vụ trả cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Phù Ninh số tiền nợ gốc 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) khi hợp đồng vay hết hạn và 69.010 đồng tiền lãi (tính đến ngày 30/6/2021). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm chị  M còn phải trả các khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay ngày 18/4/2019.

Do khoản tiền nợ mà chị  M có nghĩa vụ phải trả nhiều hơn các khoản nợ mà anh H có nghịa vụ trả nên anh H phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị  M số tiền chênh lệch là 750.000 đồng.

[6] Về công sức đóng góp: Cả hai anh chị đều xác nhận không có nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Tại phiên tòa hôm nay đại diện VKS nhân dân huyện Phù Ninh có quan điểm: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay tuân thủ đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Đề nghị H ĐXX xử cho chị Nguyễn Thanh  M được ly hôn anh Ngô Quang H.

- Về con chung: Giao cháu Ngô Xuân Tr, sinh ngày 25/9/2012 cho anh Ngô Quang H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Ngô Thị Phương H, sinh ngày 11/01/2015 cho chị Nguyễn Thanh  M trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

- Về tài sản chung: Không xem xét do anh chị xác nhận không có.

- Về nợ chung: Xác nhận anh H và chị  M còn có các khoản nợ chung với tổng số tiền là 38.500.000 đồng (Ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Đề nghị H ĐXX: Giao cho chị chị  M phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng chính sách xã hội huyện Phù Ninh số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) khi đến hạn trả nợ và khoản tiền lãi phát sinh.

Giao cho anh H phải có nghĩa vụ trả các khoản nợ cho: Anh Nguyễn Hoàng C số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), anh Lê Văn H số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh Trần Văn V số tiền 3.000.000 đồng (Ban triệu đồng) và chị Nguyễn Thanh B số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), không phải trả lãi đối với các khoản nợ trên.

Anh H phải có nghĩa vụ thanh toán chênh lệch cho chị  M số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

- Về công sức đóng góp: Không xem xét do không có.

Xét thấy đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: 

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 6, Điều 26, điểm e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý vả sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử: Cho chị Nguyễn Thanh  M được ly hôn anh Ngô Quang H.

- Về nuôi con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa chị Nguyễn Thanh  M và anh Ngô Quang H về con chung như sau:

Giao cho chị Nguyễn Thanh  M trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ngô Thị Phương H, sinh ngày 11/01/2015. Giao cho anh Ngô Quang H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ngô Xuân Tr, sinh ngày 25/9/2012. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Xác nhận hiện chị Nguyễn Thanh  M và anh Ngô Quang H không cho ai nợ và còn nợ các khoản nợ chung với tổng số tiền là: 38.500.000 đồng (Ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Giao cho chị Nguyễn Thanh  M có nghĩa vụ trả cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách huyện Phù Ninh số tiền nợ gốc 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) khi đến hạn trả nợ, tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 30/6/2021 là 69.010 đồng (Sáu mươi chín nghìn không trăm linh một đồng). Tổng là: 20.069.010 đồng (Hai mươi triệu không trăm sáu mươi chín nghìn không trăm linh một đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, chị  M còn phải chịu các khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay ngày 18/4/2019.

Buộc anh Ngô Quang H có nghĩa vụ trả cho:

+ Anh Nguyễn Hoàng C: 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), không phải trả lãi.

+ Anh Lê Văn H: 2.500.000 đồng ( Hai triệu năm trăm nghìn đồng), không phải trả lãi.

+ Anh Trần Văn V: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), không phải trả lãi.

+ Chị Nguyễn Thanh B: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), không phải trả lãi.

Tổng là: 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Anh Ngô Quang H có nghĩa vụ thanh toán tiền chênh lệch về nghĩa vụ trả nợ cho chị  M là 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày anh Nguyễn Hoàng C, anh Lê Văn H, anh Trần Văn V, chị Nguyễn Thanh B và chị Nguyễn Thanh  M có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, anh H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về công sức đóng góp: Không có.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thanh  M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0001670 ngày 06/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Chị  M đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thanh  M phải chịu 962.000 đồng (Chín trăm sáu mươi hai nghìn đồng) tiền án phí của người có nghĩa vụ trả nợ.

Anh Ngô Quang H phải chịu 962.000 đồng (Chín trăm sáu mươi hai nghìn đồng) tiền án phí của người có nghĩa vụ trả nợ.

Chị Nguyễn Thanh M và ang Ngô Quang H có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày tuyên án để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 17/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về