Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 16/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 208/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hoàng Minh D, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị X, sinhnăm 1991.

Địachỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 17/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Hoàng Minh D trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là chị Lê Thị X tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2014, đến ngày 11/01/2018 mới thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 7 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh D nghi ngờ chị X có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, tuy sống chung một nhà nhưng vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không đoàn tụ được. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh D đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị X.

Về con chung: Anh D khai vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Hoàng Thùy T, sinh ngày 24/01/2016 và cháu Hoàng Minh D, sinh ngày 02/8/2018, hiện nay cả hai cháu T và D đang ở với anh D. Anh D đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu T và D,không yêu cầu chị X phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện nay anh đang làm kinh tế hộ gia đình, thu nhập hàng tháng khoảng 8.000.000 đồng đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai ngày 09/12/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Lê Thị X trình bày: Giữa bị đơn và nguyên đơn là anh Hoàng Minh D tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2014, đến ngày 11/01/2018 chị và anh D mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T. Trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng không đến mức nghiêm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế gia đình khó khăn, anh D có quan hệ ngoại tình với người khác nên vợ chồng cãi chửi nhau từ đó tình cảm vợ chồng nhạt dần, tuy sống chung một nhà nhưng vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay anh D đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, chị X không đồng ý.

Về con chung: Chị X khai vợ chồngcó hai con chung, các cháu tên là Hoàng Thùy T, sinh ngày 24/01/2016 và cháu Hoàng Minh D, sinh ngày 02/8/2018. Chị X đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D, để anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, chị X và anh D không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai.

Về tài sản: Chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên quan điểm của mình; đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh D, giao cháu T cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu D cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, anh D và chị X không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai, là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không có khiếu nại về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng đều đúng quy định theo pháp luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Anh Hoàng Minh D và chị Lê Thị X kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng nghi kỵ lẫn nhau dẫn đến thường xuyên cãi chửi, xúc phạm nhau. Kết quả xác minh ngày 20/01/2021 tại Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy anh D và chị X chung sống đến cuối năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn nên vợ chồng cãi chửi nhau. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa anh D và chị X luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột, đời sống chung của vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho anh D được ly hôn chị X là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh D và chị X thừa nhận vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên là Hoàng Thùy T, sinh ngày 24/01/2016 và cháu Hoàng Minh D, sinh ngày 02/8/2018. Anh D đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai cháu T và D, tuy nhiên cháu D chưa đủ 36 tháng tuổi nên giao cháu D cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, anh D và chị X không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Anh D và chị X không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Hoàng Minh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Vềhônnhân: Cho ly hôn giữa anh Hoàng Minh D và chị Lê Thị X.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Hoàng Thùy T, sinh ngày 24/01/2016 và cháu Hoàng Minh Duy, sinh ngày 02/8/2018 là con chung của anh D và chị X.

Giao cháu D cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, anh D và chị X không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ai Anh D, chị X có quyền đi lại, thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Anh D, chị X không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Anh Hoàng Minh D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh D đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009262 ngày30/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh D đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh D, chị X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 16/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về