Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 139/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 139/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 137/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hải Y, sinh năm 1991. Địa chỉ: Xóm 2, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Đề nghị vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989. Nơi đăng ký HKTT trước khi xuất cảnh: xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Hiện cư trú tại: Đài Loan - Trung Quốc. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vợ chồng ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị S , sinh năm 1962 (bố mẹ anh Nguyễn Văn T); Địa chỉ: Xóm 2, xã M, huyện C, Nghệ An. Đề nghị vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/6/2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hoàng Thị Hải Y trình bày: Chị Y và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 14/01/2015 tại Ủy ban nhân dân D (Nay là xã B), huyện D, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, hai người chung sống với nhau hạnh phúc đến tháng 6/2017, anh T xuất cảnh sang Đài Loan - Trung Quốc lao động. Kể từ khi xuất cảnh sang nước ngoài, anh T không hề quan T đến vợ con và cắt đứt mọi liên lạc với chị Y, hai người không quan T gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay chị Hoàng Thị Hải Y xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị Y yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Y và anh Nguyễn Văn T có hai con chung cháu Nguyễn Kim Ph, sinh ngày 08/8/2015 và cháu Nguyễn Ngọc B, sinh ngày 06/10/2017. Hiện cháu Ngọc B đang do chị Y nuôi dưỡng, còn cháu Kim Ph đang do vợ chồng ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị S (bố mẹ anh T) quản lý, chăm sóc. Nếu ly hôn, do hiện anh T đang ở nước ngoài, nên chị Y yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía anh Nguyễn Văn T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng… cho anh Nguyễn Văn T thông qua vợ chồng ông Nguyễn Văn Th , bà Nguyễn Thị S (bố mẹ anh T), anh T đã biết việc chị Hoàng Thị Hải Y yêu cầu ly hôn anh và giải quyết các nội dung liên quan, nhưng anh T không cung cấp địa chỉ cũng không có quan điểm bằng văn bản về việc giải quyết vụ án.

Bà Nguyễn Thị S trình bày: Bà Sâm xác định, anh Nguyễn Văn T đã biết việc chị Hoàng Thị Hải Y xin ly hôn và giải quyết các nội dung liên quan, nhưng do anh T không có nơi ở ổn định nên không cung cấp địa chỉ cũng không có lời khai gửi cho Tòa án. Vợ chồng chị Y, anh T có hai con chung là cháu Nguyễn Kim Ph, sinh ngày 08/8/2015 và cháu Nguyễn Ngọc B, sinh ngày 06/10/2017. Hiện cháu Ngọc B đang do chị Y nuôi dưỡng, còn cháu Kim Ph do vợ chồng ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị S (bố mẹ anh T) quản lý, chăm sóc từ năm 2017 đến nay, vợ chồng bà Sâm không yêu cầu vợ chồng phải thanh toán các khoản chi phí. Nay vợ chồng ly hôn, do anh T chưa có ý kiến gì nên đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi con theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định thuộc trường hợp. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo bà Nguyễn Thị Sâm cung cấp, hiện anh Nguyễn Văn T đang cư trú tại Đài Loan - Trung Quốc. Mặc dù không có nơi cư trú cụ thể, nhưng anh T thường liên lạc với vợ chồng bà Sâm, nên anh T đã biết được chị Y yêu cầu ly hôn và anh T không có ý kiến gì. Việc anh Nguyễn Văn T vắng mặt được xác định, cố tình giấu địa chỉ và không khai báo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định và cho họ ly hôn nhau. Về nuôi con chung; hiện anh T đang ở nước ngoài, mặc dù cháu Ph đang do vợ chồng bà Sâm, bố mẹ anh T quản lý, chăm sóc. Tuy nhiên hiện anh T chưa có ý kiến và cũng không có nơi cư trú cụ thể. Do đó, đề nghị giao cho chị Y nuôi dưỡng cả hai con chung; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T. Về tài sản chung; chị Y không yêu cầu và anh T chưa có ý kiến gì, đề nghị Hội đồng xét xử chưa xem xét. Về công quản lý, chăm sóc cháu Ph, vợ chồng bà Sâm, ông Thuận không yêu cầu, nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn T hiện đang cư trú ở nước ngoài, trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, theo vợ chồng bà Nguyễn Thị Sâm mẹ của anh T cung cấp: Anh Nguyễn Văn T hiện đang cư trú tại Đài Loan – Trung Quốc, mặc dù không biết nơi cư trú cụ thể, nhưng anh T thường xuyên liên lạc với vợ chồng bà Sâm nên anh T đã biết được chị Y yêu cầu ly hôn anh và không có ý kiến gì. Do đó, việc anh Nguyễn Văn T vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo.

Đối với vợ chồng bà Nguyễn Thị S , ông Nguyễn Văn Th , trong quá trình giải quyết vụ án đã có ý kiến của mình về các nội dung liên quan và đề nghị Tòa án giải quyết xét xử vắng mặt. Ngày 14/9/2021, chị Hoàng Thị Hải Y có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 207, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, mặc dù chị Hoàng Thị Hải Y vắng mặt, nhưng vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Văn T và yêu cầu được nuôi các con chung. Xét thấy, chị Hoàng Thị Hải Y và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết hôn hai người chung sống với nhau hạnh phúc đến tháng 6/2017 anh T xuất cảnh sang Đài Loan - Trung Quốc lao động. Kể từ khi xuất cảnh sang nước ngoài anh T không hề quan T đến vợ con và cắt đứt mọi liên lạc với chị Y, hai người không quan T gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay chị Y xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho hai người ly hôn để giải phóng cho nhau.

[3] Về nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Hải Y và anh Nguyễn Văn T có hai con chung là cháu Nguyễn Kim Ph, sinh ngày 08/8/2015 và cháu Nguyễn Ngọc B, sinh ngày 06/10/2017. Hiện cháu Ngọc B đang do chị Y nuôi dưỡng, còn cháu Kim Ph đang do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Thị Sâm (bố mẹ anh T) quản lý, chăm sóc.

Xét thấy, mặc dù cháu Nguyễn Kim Ph đang do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Thị Sâm (bố mẹ anh T) quản lý, chăm sóc, tuy nhiên hiện anh Nguyễn Văn T chưa có ý kiến và cũng không có nơi cư trú cụ thể. Hơn nữa, việc nuôi dưỡng con chung là quyền cũng là nghĩa vụ của vợ chồng sau khi ly hôn, do đó, cần giao cả hai cháu cho chị Y nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn T có thể khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung khi có điều kiện. Còn việc vợ chồng bà Sâm có nguyện vọng nuôi cháu Ph, thì chị Y, anh T và vợ chồng bà Sâm có thể thỏa thuận với nhau để đảm bảo ổn định về mọi mặt cho cháu. Về cấp dưỡng: Chị Y không yêu cầu nên Tòa án chưa xem xét. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[4] Về việc quản lý con chung: Vợ chồng bà Nguyễn Thị S , ông Nguyễn Văn Th là người trực tiếp quản lý cháu Nguyễn Kim Ph trong thời gian anh T ở nước ngoài. Tuy nhiên, vợ chồng bà S , ông Th không yêu cầu vợ chồng chị Y thanh toán các khoản chi phí chăm sóc cháu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Hiện chị Hoàng Thị Hải Y không yêu cầu giải quyết và anh Nguyễn Văn T cũng chưa có ý kiến gì nên Tòa án chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị Hải Y phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 207; khoản 3 Điều 228; khoản 1, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 53, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Hải Y và anh Nguyễn Văn T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao hai con chung là cháu Nguyễn Kim Ph, sinh ngày 08/8/2015 và cháu Nguyễn Ngọc B, sinh ngày 06/10/2017 cho chị Hoàng Thị Hải Y nuôi dưỡng.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Hải Y không yêu cầu và Nguyễn Văn T chưa có ý kiến nên Tòa án chưa xem xét. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

4. Về án phí: Hoàng Thị Hải Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0004870 ngày 06/7/2021.

5. Về quyền kháng cáo:

5.1. Chị Hoàng Thị Hải Y và bà Nguyễn Thị S , ông Nguyễn Văn Th vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản sao bản án sơ thẩm.

5.2. Anh Nguyễn Văn T đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết bản sao bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 139/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:139/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về