Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 126/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ M, TỈNH H

BẢN ÁN 126/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh H mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 103/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2021 về việc “Kiện ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/9/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Đào Thị L - Sinh năm 2000 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn C, xã C, thị xã M, tỉnh H.

* Bị đơn: Anh Hoàng Văn Ph - Sinh năm 1995 (Vắng mặt). Địa chỉ: Tổ dân phố A, Phường Nh, thị xã M, tỉnh H.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cháu Hoàng Đào Cẩm H - Sinh ngày 06/02/2018 (Vắng mặt).

+ Người đại diện theo pháp luật cho cháu Hoàng Đào Cẩm H: Chị Đào Thị L (Có mặt).

Đều có địa chỉ: Thôn C, xã C, thị xã M, tỉnh H.

* Người làm chứng: Bà Đặng Thị Ch - Sinh năm 1970 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn C, xã C, thị xã M, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Về quan hệ hôn nhân:

* Nguyên đơn chị Đào Thị L trình bày: Chị Đào Thị L và anh Hoàng Văn Ph tìm hiểu và yêu nhau sau đó được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới vào ngày 12/4/2017 (âm lịch), do chưa đủ tuổi kết hôn nên đến ngày 03/12/2018 thì anh chị đã tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, thị xã M. Sau ngày cưới vợ chồng ở tại nhà của bố mẹ chị L tại thôn C, xã C, thị xã M, tỉnh H. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Anh Ph là người chồng thiếu trách nhiệm, đi làm nhưng không đưa tiền để chị nuôi con, chị phải vất vả một mình nuôi con. Ngoài ra anh Ph là người chồng ham chơi, thường xuyên uống rượu gây sự, chửi bới chị và bố mẹ chị nên vợ chồng đã nhiều lần xảy ra xô xát, cãi nhau, anh Ph đã đánh chị 3 - 4 lần. Đến tháng 10 năm 2019 vợ chồng đánh nhau nên anh Ph đã bỏ ra ngoài thuê trọ tại tổ dân phố A, phường Nh, thị xã M đến nay. Quá trình ly thân vợ chồng không liên lạc, không ai quan tâm đến ai, không còn tình cảm với nhau nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Ph.

* Bị đơn anh Hoàng Văn Ph trình bày: Cuộc sống vợ chồng bình thường đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung, kinh tế gia đình khó khăn, thỉnh thoảng anh cũng uống rượu giao lưu bạn bè. Cuộc sống gia đình căng thẳng và mệt mỏi, ngoài ra anh và mẹ vợ cũng có những mâu thuẫn bất đồng nên khi vợ chồng mâu thuẫn không có sự can ngăn hòa giải của phía gia đình. Mẹ đẻ chị L đã gói quần áo của anh và đuổi anh ra khỏi nhà nên anh phải thuê nhà tại tổ dân phố A, phường Nh để sinh sống. Vợ chồng ly thân từ tháng 10 năm 2020 đến nay, không liên lạc, không ai quan tâm đến ai. Nay chị L khởi kiện ly hôn anh nhất trí.

2. Về con chung: Chị Lvà anh Ph xác nhận vợ chồng sinh được 01 con chung là cháu Hoàng Đào Cẩm H - Sinh ngày 06/02/2018. Nếu ly hôn chị L yêu cầu được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Ph nhất trí để chị Lý nuôi con.

3. Về tài sản, vay nợ, công sức, ruộng nông nghiệp: Chị L và anh Ph đều tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Người làm chứng bà Đặng Thị Ch trình bày: Gia đình bà tổ chức lễ cưới cho chị L và anh Ph năm 2017, do chị L chưa đủ tuổi kết hôn nên đến năm 2018 anh chị mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C. Sau ngày cưới anh Ph về gia đình bà chung sống, quá trình chung sống anh Ph là người chồng thiếu trách nhiệm với vợ con, ham chơi, rượu chè và thường xuyên chửi, đánh vợ trước mặt bà. Bà đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh Ph không thay đổi tính nết, hỗn láo, vợ chồng đã đánh nhau nhiều lần. Tháng 10 năm 2019 anh chị đánh nhau nên anh Ph bỏ ra ngoài thuê trọ tại tổ dân phố A, phường Nh, thị xã M, tỉnh H để sinh sống. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn anh Ph.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Ph vắng mặt và có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt nên không hòa giải được và phải đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên toà hôm nay:

+ Nguyên đơn chị Đào Thị L trình bày: Chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định chị với anh Hoàng Văn Ph ly thân nhau đã lâu, vợ chồng không liên lạc, không ai quan tâm đến ai, không còn tình cảm với nhau nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Phong.

+ Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã M phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Toà án thụ lý vụ án, lấy lời khai, thu thập chứng cứ, thông báo về phiên họp kiểm tra về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tiến hành mở phiên họp kiểm tra về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; lập biên bản hòa giải; Biên bản làm việc giải thích pháp luật cũng như ra Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử độc lập, Thẩm phán và Thư ký chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, xử cho chị L được ly hôn anh Ph. Giao cháu Hoàng Đào Cẩm H cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L tự nguyện không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con.

Các vấn đề khác: Tài sản, vay nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Anh chị tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không phải giải quyết.

Về án phí: Buộc chị Đào Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét khách quan toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Chị Đào Thị L và anh Hoàng Văn Ph kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thị xã M ngày 03/12/2018 và đã được cấp Giấy chứng nhận kết hôn là đúng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Nay chị L khởi kiện xin ly hôn với anh Ph nên đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn anh Hoàng Văn Ph có địa chỉ tạm trú tại thôn tổ dân phố A, phường Nh, thị xã M nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh H theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Hoàng Văn Ph, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cháu Hoàng Đào Cẩm H đều vắng mặt, tuy nhiên anh Ph đã có lời khai và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Cháu H còn nhỏ và chị L là đại diện theo pháp luật cho cháu H có mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Ph, cháu H là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị L và anh Hoàng Văn Ph được hai bên gia đình tổ chức lễ thành hôn và chung sống với nhau từ năm 2017, do chưa đủ tuổi kết hôn nên đến ngày 03/12/2018 thì anh chị đã tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, thị xã M, tỉnh H. Vì vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp tính từ ngày 03/12/2018 và được pháp luật bảo hộ.

Quá trình giải quyết vụ án, chị L và anh Ph đều thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn và đã có lần anh Ph đánh chị L. Tháng 10 năm 2019 do mâu thuẫn vợ chồng nên anh Ph lại đánh chị L và ra ngoài thuê trọ sinh sống tại tổ dân phố A, phường Nh, thị xã M, tỉnh H. Vợ chồng anh chị ly thân từ đó cho đến nay. Căn cứ vào các lời khai của chị L, anh Ph và bà Ch là mẹ đẻ chị L;

căn cứ vào việc hỏi công khai tại phiên tòa, Hôi đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh Ph đã trầm trọng và kéo dài, anh chị đã có thời gian ly thân nhưng tình cảm không cải thiện, chị L khởi kiện ly hôn thì anh Ph nhất trí cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L về việc xin ly hôn anh Ph.

- Về con chung: Chị L và anh Ph cưới nhau, chung sống với nhau từ năm 2017 đến nay có 01 con chung là cháu Hoàng Đào Cẩm H - Sinh ngày 06/02/2018, sau đó anh chị mới đăng ký kết hôn ngày 03/12/2018. Mặc dù cháu H sinh ra trước khi anh chị đăng ký kết hôn, tuy nhiên chị L và anh Ph đều xác nhận do chị L chưa đủ tuổi nên chưa đăng ký kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới và chung sống, trong quá trình chung sống thì anh chị sinh cháu H và anh chị đều xác định cháu H là con của anh chị. Vì vậy Hội đồng xét xử xác định cháu Hoàng Đào Cẩm H là con chung của chị L và anh Ph.

Quá trình giải quyết vụ án nguyện vọng của chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung thì thấy:

Cháu H dưới 36 tháng tuổi nên căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình sẽ giao cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc. Mặt khác, anh Ph cũng nhất trí nên Hội đồng xét xử sẽ giao cháu H cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi cháu H thành niên. Đồng thời Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Vấn đề về cấp dưỡng nuôi con chung và thay đổi việc nuôi con chung, khi nào các bên yêu cầu sẽ xem xét giải quyết ở vụ kiện khác.

Về tài sản, vay nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Hai bên đều tự nguyện không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Chị Đào Thị L phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, * Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 73; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đào Thị L; Xử cho chị Đào Thị L được ly hôn anh Hoàng Văn Ph.

[2]. Về con chung: Giao cháu Hoàng Đào Cẩm H - sinh ngày 06/02/2018 cho chị Đào Thị L nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi thành niên. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Đào Thị L không yêu cầu anh Hoàng Văn Ph phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Hoàng Văn Ph có quyền thăm và chăm sóc con chung; Không ai được cản trở anh Ph thực hiện quyền này.

Chị Đào Thị L và anh Hoàng Văn Ph có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn.

[3]. Về tài sản, công nợ, công sức và ruộng nông nghiệp: Không phải giải quyết.

[4]. Về án phí: Buộc chị Đào Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm ly hôn. Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ chị Lý đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0004479 ngµy 21/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã M, tỉnh H. Chị L đã nộp xong án phí sơ thẩm ly hôn.

[5]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 126/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:126/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về