Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 11/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H M, TỈNH N A

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 29 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã H M xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2021/TLST- HN&GĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2021/QĐST-HN&GĐ ngày 16 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Ph, sinh năm: 1984 (Có mặt).

Nơi ĐKHKTT: Thôn 9, xã Q V, thị xã H M, tỉnh N A.

Chỗ ở hiện nay: Xóm 5, xã D Đ, huyện D C, tính N A.

Bị đơn: Anh Lê Sỹ H, sinh năm: 1984 (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn 9, xã Q V, thị xã H M, tính N A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Hoàng Thị Ph trình bày:

Chị và bị đơn anh Lê Sỹ H kết hôn với nhau vào ngày 18/7/2011 có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND xã Q V, huyện Q L (nay là thị xã H M), tỉnh N A trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngăn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H thường xuyên uống rượu say nên thường xuyên chửi bới, đánh đập chị, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, vợ chồng sống không có tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng liên tục sâu sắc và ngày càng trầm trọng hơn. Mâu thuẫn vợ chồng cũng được gia đình hai bên hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không được. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay và cắt đứt mọi liên hệ với nhau. Nay chị xét tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh Lê Sỹ H.

Về con: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Thị L A, sinh ngày 11/5/2012 và Lê Hoàng B A, sinh ngày 01/4/2014. Các con chung hiện đang ở với chị, nếu ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con chung, tại đơn khởi kiện biên bản hòa giải chị có yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cho chị nhưng nay chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cho chị nữa, còn anh H có trách nhiệm như thế nào với con là trách nhiệm của anh H. Vợ chồng không ai có con riêng.

Về tài sản chung, riêng: Vợ chồng chị tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bị đơn anh Lê Sỹ H trình bày: Anh thống nhất thời gian, điều kiện kết hôn như chị Hoàng Thị Ph đã trình bày ở trên. Trong cuộc sống vợ chồng sống với nhau bình thường, do anh hay uống rượu nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và chị Ph đã bỏ về bên ngoại sống từ lâu, vợ chồng cũng đã ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị Ph xin ly hôn anh thì anh thấy tình cảm vợ chồng đang còn nên không đồng ý ly hôn vì thương các con.

Về con: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Thị L A, sinh ngày 11/5/2012 và Lê Hoàng B A, sinh ngày 01/4/2014. Các con chung hiện đang ở với chị Ph, nếu ly hôn anh không đồng ý ly hôn nên không có ý kiến về con chung. Anh cũng không cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ph, khi nào con đủ 18 tuổi anh sẽ cấp dưỡng nuôi con học đại học. Vợ chồng không ai có con riêng.

Về tài sản chung, riêng: Vợ chồng anh tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H M phát biểu ý kiến như sau:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị :

- Xử cho chị Hoàng Thị Ph được ly hôn với anh Lê Sỹ H.

- Về con chung: Giao 02 con chung là Lê Thị L A, sinh ngày 11/5/2012 và Lê Hoàng B A, sinh ngày 01/4/2014 cho chị Hoàng Thị Ph được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lê Sỹ H vì chị Ph chưa yêu cầu.

- Về tài sản chung, riêng và nợ: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí : Chị Hoàng Thị Ph phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nạp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Hoàng Thị Ph với bị đơn anh Lê Sỹ H. Hiện tại bị đơn anh Lê Sỹ H đang sinh sống và có hộ khẩu thường trú tại Thôn 9, xã Q V, thị xã H M, tỉnh N A. Nên Tòa án nhân dân thị xã H M, tỉnh N A giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 BLTTDS. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Sỹ H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa xét xử đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và xem như bị đơn từ bỏ quyền, nghĩa vụ chứng minh. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án để làm căn cứ giải quyết vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Ph, anh Lê Sỹ H lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 18/7/2011 có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND xã Q V, huyện Quỳnh Lưu (nay là thị xã H M), tỉnh N A trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H thường xuyên uống rượu, chửi bới, đánh đập chị Ph, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, vợ chồng sống không có tình cảm, mâu thuẫn liên tục sâu sắc và ngày càng trầm trọng hơn. Hai bên đã chấm dứt mọi quan hệ vợ chồng từ năm 2016 cho đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau, bản thân chị Ph, anh H hiện đã sống ly thân và không còn liên lạc hỏi han, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, chứng tỏ vợ chồng không còn tình cảm gì với nhau nữa. Tòa án cũng đã phân tích hòa giải cho vợ chồng về đoàn tụ nhưng vẫn không có kết quả. Chị Ph xin ly hôn anh H, anh không thống nhất ly hôn. Tuy nhiên Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể đoàn tụ được với nhau.

Nghĩ nên áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Hoàng Thị Ph được ly hôn anh Lê Sỹ H.

[2.2] Về con chung: Hai con chung hiện đang sống chung với chị Ph, anh H thường xuyên uống rượu, không quan tâm gì đến các con chung, thiếu trách nhiệm trong việc nuôi dạy con chung, mặc dù việc nuôi con chung rất khó khăn, nhưng hiện nay chị Ph luôn hoàn thảnh nghĩa vụ trách nhiệm của mình đối với hai con chung, đã nuôi dạy con tốt, con ngoan, con chung phát triển về mọi mặt, thể hiện là người có trách nhiệm cao. Hiện nay điều kiện của chị cũng đủ điều kiện, cũng như thời gian để chăm sóc nuôi dưỡng các con chung do đó chị Phượng yêu cầu trực tiếp nuôi hai con chung là hoàn toàn có căn cứ, yêu cầu của chị phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội, phù hợp với nguyện vọng của hai con chung, cần chấp nhận việc đề nghị giao nuôi con của chị Hoàng Thị Ph.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện, bản tự khai chị Ph có yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị, nay chị không cầu anh H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nữa, anh H cũng thống nhất nên cần tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh H.

[2.3] Về tài sản chung, và nợ: Vợ chồng anh chị tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Hoàng Thị Ph phải nạp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ph đã nạp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56; Điều 81; Điều 82 vụ Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Ph được ly hôn anh Lê Sỹ H.

Về con chung: Giao hai con chung là cháu Lê Thị L A, sinh ngày 11/5/2012 và cháu Lê H B A, sinh ngày 01/4/2014 cho cháu Hoàng Thị Ph trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm hoàn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Lê Sỹ H cho đến lúc có yêu cầu

Anh Lê Sỹ H người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom chăm sóc các con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, riêng: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Hoàng Thị Ph phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ph đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã H M, tính N A theo biên lai thu tiền số 0006778 ngày 26/3/2021.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N A trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N A trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 11/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về