TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 104/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 18/11/2020 tại phòng xử án thuộc trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 430/2020/TLST-HNGĐ ngày 12/10/2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 317/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/10/2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1974 (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1974 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Số A, Ấp X, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, qua xem xét lời khai và yêu cầu của các đương sự, qua xét hỏi trước tòa, nội dung vụ án được xác định như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 14/9/2020, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim D trình bày: Vào năm 1997, bà và ông T cưới nhau trên tinh thần tự nguyện, nhưng không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Thanh N, sinh ngày 25/3/1999 hiện đã trưởng thành sống tự lập. Trong quá trình chung sống, do vợ chồng không cùng quan điểm thường xuyên phát sinh mâu thuẩn cự cải nhau, sống với nhau không có hạnh phúc. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục nữa, nay bà D yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông T là vợ chồng;
Về con chung: Cháu N đã trưởng thành sống tự lập nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: Tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Trần Văn T trình bày: Ông T thống nhất với quá trình hôn nhân và con chung như bà D khai. Ông T cho rằng, trong quá trình chung sống, vợ chồng cũng có phát sinh mâu thuẫn nhưng không lớn, ông yêu cầu được hàn gắn với bà D nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D về việc không công nhận ông và bà D là vợ chồng.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách phát biểu ý kiến: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ. Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.
Về nội dung giải quyết vụ án: Bà D và ông T sống chung với nhau trên tinh thần tự nguyện, nhưng không đăng ký kết hôn. Giữa bà D và ông T không cùng quan điểm sống, vợ chồng sống với nhau không có hạnh phúc. Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Nay bà D yêu cầu không công nhận bà và ông T là vợ chồng là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 .
Về con chung: Con chung của bà D và ông T đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất lẫn tinh thần nên không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân:
Vào năm 1997, bà D và ông T cưới nhau trên tinh thần tự nguyện, nhưng đến nay không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, bà D và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn, hôn nhân không có hạnh phúc. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, đồng thời phải đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Bà D và ông T chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà không được pháp luật công nhận. Nay bà D yêu cầu không công nhận bà và ông T là vợ chồng là có căn cứ, cần được chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D.
[2] Về con chung: Bà D và ông T có 01 con chung tên Trần Thị Thanh N, sinh ngày 25/3/1999 đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất, lẫn tinh thần, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách: Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách như đã phân tích trên.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
TUYÊN XỬ:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim D, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Kim D và ông Trần Văn T.
2. Về con chung: Bà D và ông T có 01 con chung tên Trần Thị Thanh N, sinh ngày 25/3/1999 đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất, lẫn tinh thần, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, bà Nguyễn Thị Kim D phải chịu là 300.000 đồng, được khấu trừ vào Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006635 ngày 08/10/2020 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã thu.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 104/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 104/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về