Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 102/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 102/2020/HNGĐ - ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 293/2020/TLST- HNGĐ, ngày 08 tháng 9 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 123/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Đặng Thị V - sinh năm 1992 (Có mặt) Trú tại: xóm N - xã V - huyện Y- tỉnh Nghệ An

- Bị đơn: anh Phan Văn K - sinh năm 1989 (Vắng mặt lần thứ hai) Trú tại: xóm N - xã V - huyện Y - tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 31/7/2020, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Đặng Thị V trình bày: chị và anh Phan Văn K kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào ngày 02 tháng 6 năm 2014, tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau bình thường. Đến năm 2019, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng xảy ra. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai bên không phù hợp, bất đồng với nhau về quan điểm sống, hai bên thường xuyên xung đột, khiến cho không khí gia đình luôn nặng nề căng thẳng, hai bên không có tiếng nói chung. Chị xác định hai bên không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn giữa hai bên đã hết sức trầm trọng, chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phan Văn Bảo A (giới tính nam) - sinh ngày 15/02/2015. Hiện nay con chung đang được chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, do không muốn xáo trộn sinh hoạt của con nên chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con để có điều kiện chăm sóc tốt nhất cho con và không yêu cầu anh Phan Văn K phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản: chị Đặng Thị V không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Phan Văn K quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh K vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh K theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bố ruột của anh K là ông Phan Văn B, ông B đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh K nhưng anh K vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh K được. Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị V và anh K đúng như chị V trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến trình bày của chị Đặng Thị V tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị V và anh K, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh K không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 02/11/2020, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 12/11/2020 chị V có mặt, anh K vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay chị V có mặt, anh K tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh K đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.

2. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị V, anh K là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng thời gian gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Đặng Thị V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phan Văn K là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Về quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị V có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung, để không xáo trộn cuộc sống của con, từ khi ly thân chị là người trực tiếp chăm sóc con chung, chị V không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của chị V là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.

Theo chị V trình bày, thì xét hoàn cảnh hiện tại của anh K hiện nay về điều kiện gần gũi và chăm sóc khéo léo con anh K không đảm bảo bằng chị V. Mặt khác con chung cũng có nguyện vọng được ở cùng với mẹ, tại phiên tòa chị V trình bày chị đang làm tự do có thu nhập trung bình từ 4.000.000 - 5.000.000 đồng/tháng đủ trang trải cuộc sống cho mẹ con, hơn nữa bên cạnh chị còn có bố mẹ, người thân hỗ trợ cho mẹ con cả vật chất lẫn tinh thần vì vậy cần tiếp tục giao cho chị V nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: chị V không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: chị V phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị V được ly hôn anh Phan Văn K.

- Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Phan Văn Bảo A (giới tính nam) - sinh ngày 15/02/2015 cho chị Đặng Thị V trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Đương sự chưa yêu cầu về tiền cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án chưa giải quyết.

Anh Phan Văn K không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị Đặng Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị V được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0002654, ngày 08 tháng 9 năm 2020), chị V đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Đặng Thị V, vắng mặt anh Phan Văn K.

Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 102/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:102/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về