Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1986; trú tại: Thôn S, xã V, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

- Bị đơn: Anh Vũ Ngọc M, sinh năm 1982; trú tại: Thôn S, xã V, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 26/4/2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Chị kết hôn với anh M ngày 18/7/2006, trước khi cưới được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã V. Sau khi cưới chị về gia đình anh M làm dâu. Sau khi cưới vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh M thường xuyên uống rượu sau về đánh chửi chị rất nhiều lần, anh M dùng dao đe dọa dùng bình sịt cay vào mặt chị, sau đó chị có báo công an viên ở xã và công an đã nhắc nhở anh M nhưng anh M vẫn không thay đổi. Tháng 4/2021 chị về nhà bố mẹ đẻ chị sống và hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn anh M Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Vũ Trọng H, sinh ngày 16/5/2007 và cháu Vũ Thế A, sinh ngày 13/10/2011, hiện nay cháu H đang ở với chị, cháu A đang ở với anh M, ly hôn chị đề nghị mỗi người nuôi một cháu như hiện nay và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Ngọc M trình bày: Anh đồng ý với lời trình bày của chị H về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn. Quá trình chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên vợ chồng có xảy ra cãi nhau. Sau đó chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ, khoảng 10 ngày sau anh sang nhà mẹ đẻ chị H để đón cháu Vũ Trọng H về thì mẻ đẻ chị H báo công an đến, chứ thực chất anh không đánh đập chị H. Nay chị H có đơn xin ly hôn, quan điểm của anh là để cho chị H tự quyết định, nếu chị H quyết tâm ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Vũ Trọng H, sinh ngày 16/5/2007 và cháu Vũ Thế A, sinh ngày 13/10/2011, hiện nay cháu H đang ở với chị H, cháu A đang ở với anh, nếu ly hôn anh đề nghị mỗi người nuôi một cháu như hiện nay và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch thụ lý vụ án hôn nhân gia đình về việc ly hôn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Từ khi thu lý vụ án đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thông báo thụ lý vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ theo đúng quy định pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi khai mạc phiên toà đến khi nghị án, đảm bảo vô tư, khách quan, đúng quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H với anh M, giao cho mỗi người nuôi một con chung và không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét thấy:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chị Vũ Thị H đối với bị đơn là anh Vũ Ngọc M. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng giải quyết vụ án: Ngày 26/4/2021 chị Vũ Thị H có đơn xin ly hôn với anh Vũ Ngọc M. Vì vậy pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn anh Vũ Ngọc M vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện việc kết hôn giữa chị H và anh M trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện L. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh M là hợp pháp. Quá trình chung sống ban đầu hai vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh M thường xuyên uống rượu say về đánh chửi chị rất nhiều lần, anh M dùng dao đe dọa, dùng bình sịt cay vào mặt chị mặc dù đã công an đã nhắc nhở nhưng anh M vẫn không thay đổi. Tháng 4/2021 hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Anh M cũng thừa nhận vợ chồng xảy ra mẫu thuẫn từ năm 2020 nguyên nhân là do tính tình không hợp nên vợ chồng có xảy ra cãi nhau. Còn việc công an báo anh lên làm việc là do khi anh sang nhà mẹ đẻ chị H để đón con thì mẹ chị H có báo công an đến, thực tế anh không đánh chị H. Qua xác minh tại địa phương thì vợ chồng chị H anh M đã phát sinh mâu thuẫn từ lâu nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, anh M uống rượu về thì vợ chồng xảy ra cãi nhau, anh M đánh đập chị H nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ nhiều lần. Đầu năm 2021 anh M đe dọa đánh chị H, sau đó chị H có làm đơn gửi đến công an xã V, sau đó công an xã đã mời gia đình đến làm việc thì anh M thừa nhận việc việc nhắn tin, gọi điện đe dọa chị H.

Việc hai vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, không tin tưởng nhau và anh M đã nhiều lần đánh và đe dọa chị H, việc hai vợ chồng không cùng chung sống nên không thể quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và đã xâm phạm đến sức khỏe của vợ. Đó là nguyên nhân của những mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh và ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Chị H xin ly hôn, anh M để tự chị H quyết định, nếu chị H quyết tâm ly hôn thì anh cũng đồng ý. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh M đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[4]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con là cháu Vũ Trọng H, sinh ngày 16/5/2007 và cháu Vũ Thế A, sinh ngày 13/10/2011, hiện nay cháu H đang ở với chị H, cháu A đang ở với anh M, các cháu cũng có quan điểm nếu bố mẹ ly hôn thì đề nghị được giữ nguyên như cuộc sống hiện nay. Cả chị H và anh M để có công việc có thu nhập, nếu ly hôn anh chị cũng muốn giữ nguyên cuộc sống của các cháu như hiện nay. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi, cũng như sự phát triển và sự ổn định trong sinh hoạt của các con thì cần giao mỗi người nuôi một cháu như hiện nay, giao cháu H cho chị H nuôi, giao cháu A cho anh M nuôi. Do mỗi người nuôi một cháu và cả hai đều không yêu cầu người kia phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

[5]. Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị H, anh M không đề nghị Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, 56, 57, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1, 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị H với anh Vũ Ngọc M.

Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Vũ Trọng H, sinh ngày 16/5/2007; anh Vũ Ngọc M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Vũ Thế A, sinh ngày 13/10/2011; không ai phải đóng góp, cấp dưỡng nuôi con chung. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.

Về án phí: Chị Vũ Thị H phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0001186 ngày 29/4/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch. Chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về