Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 10/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 09/2021/TLST-HNGĐ ngày 14/01/2021, về việc ''Tranh chấp Hôn nhân và gia đình'', theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/4/2021 và theo Quyết định hoãn phiên toà số: 39/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/4/2021 và số 62/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990 (Có mặt);

HKTT: Thôn PN, xã ĐP, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Hiện trú tại: Thôn Đ, xã ĐP, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1986 (Vắng mặt); HKTT: Thôn PN, xã ĐP, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hà trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hà kết hôn với anh Đỗ Văn Cư, sinh năm 1986; HKTT: Thôn Phong Nẫm, xã Đông Phong, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Trước khi cưới vợ chồng có được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 30/11/2007 tại UBND xã Đông Phong, huyện Yên Phong. Sau ngày cưới chị Hà có về làm dâu nhà anh Cư, vợ chồng ăn chung với bố mẹ chồng.

Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hoà thuận thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, trầm trọng nhất là vào khoảng tháng 6/2017, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh Cư không chịu làm ăn, chơi bời, cờ bạc, không lo cho gia đình, rượu say về đánh đập chị, ngoài ra anh Cư còn có người phụ nữ khác. Vợ chồng ly thân từ tháng 6 năm 2018 nhưng chị Hà vẫn ở nhà chồng nuôi con, còn anh Cư đi sống cùng người đàn bà khác. Từ tháng 12/2020 anh Cư đuổi nên chị phải về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Vợ chồng mâu thuẫn hai bên gia đình có biết, có khuyên giải cho vợ chồng về với nhau nhưng không được. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cư.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Đỗ Hồng Phong, sinh ngày 24/03/2008; Đỗ Hồng Phi, sinh ngày 18/12/2009; Đỗ Đức Phát, sinh ngày 20/5/2014. Hiện nay cả 3 cháu ở với ông bà nội. Quá trình làm việc, chị xin nuôi cả 3 cháu. Không yêu cầu anh Cư cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên toà, chị Hà xin thay đổi yêu cầu nuôi con chung: Chị Hà xin nuôi dưỡng cháu Phát, đồng ý để anh Cư nuôi dưỡng cháu Phong, cháu Phi. Không yêu cầu anh Cư cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị Hà không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Bị đơn anh Đỗ Văn Cư vắng mặt tại phiên toà.

Anh Cư có hộ khẩu tại địa phương, nhiều lần Toà án triệu tập nhưng không lên làm việc. Toà án đã tiến hành xác minh tại địa phương.

Tại biên bản xác minh với trưởng thôn Phong Nẫm, xã Đông Phong, huyện Yên Phong cung cấp: Anh Cư có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn Phong Nẫm, xã Đông Phong, huyện Yên Phong, nhưng anh Cư thường xuyên vắng nhà, đi làm từ sáng đến tối mới về. Tòa án cùng với trưởng thôn đến nhà anh Cư để làm việc nhưng cửa khóa, không ai có nhà nên không lấy được lời khai của anh Cư. Vợ chồng anh Cư chị Hà có mâu thuẫn dẫn đến chị Hà phải bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống tại thôn Đông Xá, xã Đông Phong, huyện Yên Phong.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng pháp luật, riêng bị đơn anh Cư không chấp hành đầy đủ về nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hà, đề nghị Toà án xử cho chị Nguyễn Thị Hà được ly hôn với anh Đỗ Văn C. Về con chung: Giao cháu Đỗ Đức P cho chị Hà trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Đỗ Hồng Phong và Đỗ Hồng Phi cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị Hà phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hà có đơn xin ly hôn, theo đúng mẫu và nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định. Anh Cư có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn Phong Nẫm, xã Đông Phong, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Yên Phong thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. Qua xác minh tại chính quyền, anh Cư có hộ khẩu và sinh sống tại thôn Phong Nẫm, xã Đông Phong nhưng thường xuyên vắng nhà, đi làm từ sáng đến tối mới về, Toà án đã tiến hành triệu tập nhiều lần anh vẫn không chấp hành, không lên Toà án để làm việc làm việc, vì vậy Toà án tiến hành niêm yết văn bản tố tụng và giải quyết vắng mặt anh Cư theo quy định. Toà án đã hoãn phiên toà vào ngày 28/4/2021 và ngày 28/5/2021, tại phiên toà hôm nay anh Cư vẫn vắng mặt, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Hà và anh Đỗ Văn Cư kết hôn vào năm 2007 trên cơ sở được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đông Phong. Khi kết hôn anh chị đủ điều kiện và tuân thủ đúng quy định pháp luật. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị Hà và anh Cư là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Sau ngày kết hôn, theo chị Hà vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, trầm trọng nhất là vào tháng 6/2017, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh Cư không chịu làm ăn, chơi bời, cờ bạc, không lo cho gia đình, rượu say về đánh đập chị, ngoài ra anh Cư còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 nhưng chị vẫn ở nhà anh Cư để nuôi con. Tháng 12/2020, anh Cư đuổi chị nên chị phải về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, anh Cư không cho chị đón các con đi cùng. Anh Cư bỏ mặc cho mâu thuẫn vợ chồng diễn ra không có biện pháp gì hàn gắn tình cảm1. HĐXX nhận định đến nay mâu thuẫn vợ chồng chị Hà, anh Cư là trầm trọng, anh chị ly thân nhau đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị Hà làm đơn xin ly hôn anh Cư là hoàn toàn tự nguyện, có căn cứ phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hà.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là các cháu Đỗ Hồng P, sinh ngày 24/03/2008; Đỗ Hồng P, sinh ngày 18/12/2009; Đỗ Đức P, sinh ngày 20/5/2014. Toà án đã tiến hành cho tự khai và lấy lời khai của các cháu. Tại phiên toà, chị H xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phát, đồng ý để anh Cư nuôi cháu Ph và cháu Ph. Xét việc giao con cho ai cần đảm bảo cho các cháu đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập và xét nguyện vọng của các cháu. Anh C không có lời khai về vấn đề con chung nhưng xét yêu cầu của chị Hà là hợp tình, có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Hà phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 235, 262, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hà. Chị Nguyễn Thị Hà được ly hôn với anh Đỗ Văn Cư.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Đức P, sinh ngày 20/5/2014 cho chị Nguyễn Thị Hà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Đỗ Hồng Phong, sinh ngày 24/03/2008 và cháu Đỗ Hồng Phi, sinh ngày 18/12/2009 cho anh Đỗ Văn Cư trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn. Người trực tiếp nuôi con chung cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hà phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm (Xác nhận chị Hà đã nộp 300.000đồng tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2020/0001120 ngày 13/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong).

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 10/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về