Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 08/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 08/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/02/2024, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 344/2023/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp hôn nhân gia đình; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/01/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2024, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991 (có mặt)

+ Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1988 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh H1 chung sống. Vợ chồng chung sống H thuận, hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2017 thì chị phát sinh mẫu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm không hợp dẫn đến cuộc sống vợ chồng có xảy ra cãi nhau.

Tháng 11/2023, mâu thuẫn vọ chồng trở lên trầm trọng, chị đã về nhà mẹ đẻ sinh sống, ly thân với anh H1 từ đó cho đến nay. Vì vậy, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn anh H1.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Trọng B, sinh ngày 11/01/2014, hiện đang ở với chị, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Nay ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi cháu, không yêu cầu anh H1 phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết. Tại phiên tòa chị vẫn giữ nguyên các yêu cầu trên.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập nhưng anh H1 không đến làm việc. Tòa án đã xác minh tại địa phương thì được biết: Anh Nguyễn Văn H1 thường trú tại thôn C, xã T, huyện Lạng Giang. Hiện tại anh H1 vẫn sinh sống và làm việc tại địa phương.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa:

+ Việc tuân theo pháp luật củaThẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H chấp hành đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án; Anh Nguyễn Văn H1 không chấp hành pháp luật.

+ Về quan điểm đường lối giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị HĐXX xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H1 - Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con Nguyễn Trọng B, sinh ngày 11/01/2014 - Ngoài ra, còn đề nghị giải quyết về án phí ly hôn và tuyên quyền kháng cáo cho đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về sự vắng mặt đương sự tại phiên tòa: Tòa án đã triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định cuả Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh Nguyễn Văn H1 không đến Tòa án làm việc. Anh H1 vắng mặt tại phiên tòa ngày 23/01/202024 và vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh H1.

- Về quan hệ pháp luật: Chị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn anh H1 và giải quyết về con chung. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Các đương sự đều trú tại xã T, huyện Lạng Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn H1 đã kết hôn với nhau năm 2009, trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại các Điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống H thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra xô sát. Vì vậy, tháng 11 năm 2023, chị H về nhà mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau. Mặc dù đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thay đổi. Điều đó chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh H1 đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng ly hôn của chị H là chính đáng, phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên HĐXX chấp nhận.

[4] Về con chung: Theo lời khai của nguyên đơn và tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy chị H và anh H1 có 01 con chung là Nguyễn Trọng B, sinh ngày 11/01/2014, hiện cháu đang ở cùng chị H, khỏe mạnh và phát triển bình thường. Chị H đề nghị được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh H1 góp tiền cấp dưỡng.

Do anh H1 không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không có đương sự nào yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; các Điều 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H1.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nguyễn Trọng B, sinh ngày 11/01/2014.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn H1 được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh H1 thực hiện quyền này. Tuy nhiên, người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của người trực tiếp nuôi dưỡng. Vì lợi ích của con chung, Tòa án có thể thụ lý giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung theo yêu cầu của đương sự và quy định của pháp luật.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000631 ngày 24/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang. Xác nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Dương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Án xử công khai sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 08/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về