Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 04/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19/01/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 115/2021/TLST-HNGĐ ngày 13/10/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1989.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã Đ, thành phố T, tỉnh T.

Nơi cư trú: Thôn C1, xã P, huyện Đ1, tỉnh T.

B đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, thành phố T, tỉnh T.

(Chị Phạm Thị H có mặt, anh Nguyễn Văn H1 vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Phạm Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn H1 tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 9 năm 2009 tại UBND xã Đ, thành phố T, tỉnh T. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã. Do cuộc sống ngột ngạt nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn C1, xã P, huyện Đ1, tỉnh T sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2021. Đến nay chị H xác định không còn tình cảm với anh H1, không thể đoàn tụ để tiếp tục chung sống với nhau được nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh H1 có ba con chung là Nguyễn Thu H2 sinh ngày 24/7/2010, Nguyễn Trà M sinh ngày 28/7/2012 và Nguyễn Ngọc A sinh ngày 11/5/2017. Hiện nay cả ba con đều đang sống cùng anh H1. Hai con H2 và M phát triển khỏe mạnh, bình thường, con A từ khi sinh ra đã bị khuyết tật, phải có người chăm sóc và đang được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội. Vì điều kiện công việc và chỗ ở chưa ổn định nên chị đề nghị anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung, chị cấp dưỡng nuôi con A 2.000.000 đồng/1 tháng.

Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn H1 trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị Phạm Thị H trình bày. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H không quan tâm đến gia đình, thường xuyên sử dụng điện thoại. Anh đã nhiều lần nhắc nhở nhưng chị H vẫn không thay đổi nên vợ chồng xảy ra xô xát. Anh không đồng ý ly hôn với chị H vì muốn các con có một gia đình đầy đủ. Nếu chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh và chị H có ba con chung như chị H trình bày. Nếu ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con H2 và M, việc cấp dưỡng cho con A giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện nay anh là lao động tự do, thu nhập trung bình một tháng khoảng 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện chính quyền địa phương nơi chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn H1 đăng ký hộ khẩu thường trú cung cấp nội dung như sau: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn H1 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, thành phố T. Sau khi kết hôn, chị H và anh H1 chung sống tại thôn C, xã Đ. Quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân nhưng cụ thể vì lý do gì thì địa phương không nắm được do gia đình không báo cáo. Chị H và anh H1 có ba con chung, trong đó có cháu A từ khi sinh ra đã bị khuyết tật, được hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh H1, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H1, về con chung: giao 03 con chung Nguyễn Thu H2, Nguyễn Trà M và Nguyễn Ngọc A cho anh Nguyễn Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Phạm Thị H cấp dưỡng cho con A 2.000.000 đồng/1 tháng kể từ tháng 01/2022 đến khi con A tự lập được cuộc sống. Về tài sản chung, nợ chung: không đặt ra giải quyết. Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Phạm Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H1 có hộ khẩu thường trú tại xã Đ, thành phố T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân thành phố Thái Bình tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn anh Nguyễn Văn H1 đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn H1 tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 9 năm 2009 tại UBND xã Đ, thành phố T, tỉnh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn, theo chị H trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã. Theo anh H1 nguyên nhân mâu thuẫn do chị H không quan tâm đến gia đình, thường xuyên sử dụng điện thoại. Anh đã nhiều lần nhắc nhở nhưng chị H vẫn không thay đổi nên vợ chồng xảy ra xô xát và đã sống ly thân. Anh H1 không đồng ý ly hôn với chị H vì muốn các con có một gia đình đầy đủ nhưng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm, khắc phục mâu thuẫn hiện tại của hai vợ chồng, chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn anh H1 chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã ở mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh H1 là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về quan hệ con chung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn H1 có ba con chung là Nguyễn Thu H2 sinh ngày 24/7/2010, Nguyễn Trà M sinh ngày 28/7/2012 và Nguyễn Ngọc A sinh ngày 11/5/2017. Hiện nay cả ba con đều đang sống cùng anh H1. Hai con H2 và M phát triển khỏe mạnh, bình thường, con A từ khi sinh ra đã bị khuyết tật, phải có người chăm sóc. Chị H đề nghị anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung, chị cấp dưỡng cho con A 2.000.000 đồng/1 tháng. Anh H1 có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con H2 và M, việc cấp dưỡng cho con A giải quyết theo quy định của pháp luật. Các con H2 và M có nguyện vọng được ở với anh H1. Xét điều kiện thực tế hiện nay, xét nguyện vọng của chị H, anh H1 và các con, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình nên giao cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung, chị H cấp dưỡng cho con A 2.000.000 đồng/1 tháng đến khi con A tự lập được cuộc sống là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị Phạm Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Văn H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy về quan hệ tài sản không giải quyết trong vụ án này.

[7] Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 147, Điều 203, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H1.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung là Nguyễn Thu H2 sinh ngày 24/7/2010, Nguyễn Trà M sinh ngày 28/7/2012 và Nguyễn Ngọc A sinh ngày 11/5/2017. Việc cấp dưỡng cho con H2 và M không đặt ra giải quyết vì anh H1 không yêu cầu. Chị Phạm Thị H cấp dưỡng cho con A 2.000.000 đồng/1 tháng (hai triệu đồng một tháng) kể từ tháng 01/2022 đến khi con A tự lập được cuộc sống.

Chị Phạm Thị H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Chị H, anh H1 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về quan hệ tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chuyển số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000362 ngày 13/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình thành án phí. Chị H còn phải nộp 300.000 đồng.

Chị Phạm Thị H có mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Văn H1 vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về