Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2022/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 01 năm 2022 về việc“Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐST- HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị Ngọc S, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Số nhà 518, đường L, Tổ 16, khóm T , phường Hòa T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ liên hệ: Số nhà 1275/B, quốc lộ 30, phường 11, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Số điện thoại: 0344.95.16.37.

Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987;

Địa chỉ: Số nhà 1054/3, quốc lộ 30, Tổ 01, Khóm 01, Phường 11, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Số điện thoại: 0862632203.

(Chị S có mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Trương Thị Ngọc S trình bày:

Về nhân nhân và gia đình: Chị S và anh T kết hôn năm 2013 và có đăng ký kết hôn tại UBND Phường E, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 19/5/2020.

Thời gian sống chung không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, chị S thường xuyên bị bạo lực gia đình từ năm 2013 đến năm 2021. Hiện vợ chồng không còn sống chung, chỉ qua lại thăm con, thời gian sống xa nhau từ ngày 25/10/2021 cho đến nay, trong thời gian này vợ chồng không hàn gắn tình cảm. Nay chị S yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014, hiện con chung đang sống chung với chị S, Khi ly hôn, chị S yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị S vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh T, về con chung chị S yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M, tài sản chung, nợ chung chị S trình bày không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T thống nhất lời trình bày của chị S về thời gian kết hôn, thời gian chung sống, cũng như mâu thuẫn vợ chồng. Anh T không đồng ý ly hôn, nhưng cũng không tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, anh thừa nhận trong quá trình sống chung có hành vi bạo lực gia đình với chị S. Nay anh T không đồng ý ly hôn với chị S.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014, hiện con chung đang sống chung với chị S. Khi ly hôn, anh T yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M, không đồng ý để chị S nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M, không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa T, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì khác và cũng không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định nguyên đơn Trương Thị Ngọc S yêu cầu được ly hôn và yêu cầu về con chung với anh Nguyễn Thanh T, như vậy quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp về hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn Nguyễn Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Nguyễn Thanh T có địa chỉ tại số nhà 1054/3, quốc lộ 30, Tổ 01, Khóm 01, Phường 11, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Ngọc S và anh Nguyễn Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 19/5/2020 tại Ủy ban nhân dân phường 11, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên quan hệ hôn nhân giữa chị S và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Tại phiên tòa, chị S trình bày sau khi kết hôn với anh T. Thời gian sống chung không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, chị S thường xuyên bị bạo lực gia đình từ năm 2013 đến năm 2021. Hiện vợ chồng không còn sống chung, chỉ qua lại thăm con, thời gian sống xa nhau từ ngày 25/10/2021 cho đến nay, trong thời gian này vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm. Nay chị S yêu cầu ly hôn với anh T. Chị S không yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi bao lực gia đình của anh T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T thống nhất lời trình bày của chị S là đúng về thời gian kết hôn, trong quá trình vợ chồng chung sống có nhiều mâu thuẫn vợ chồng, anh T không đồng ý ly hôn, nhưng trong thời gian vợ chồng sống xa nhau và trong quá trình giải quyết vụ án anh T cũng không tìm cách hàn gắn và không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng và vắng mặt tại phiên tòa, đồng thời do chị S nhiều lần bị bao lực gia đình nên chị S cũng không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc.

Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị S và anh T có nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị S về việc xin ly hôn với anh T là phù hợp với Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Trương Thị Ngọc S và anh Nguyễn Thanh T có một con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014, hiện con chung đang sống chung với chị S, khi ly hôn chị S yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh T cũng thống nhất vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014, hiện con chung đang sống chung với chị S, khi ly hôn anh T yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M, không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con, nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa.

Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi chị S và anh T không sống chung đến nay, con chung đều sống chung và gần gũi với chị S ổn định thời gian dài, phát triển tốt về mọi mặt và cùng phù hợp với nguyện vọng của cháu Nguyễn Ngọc M. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị S. Tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014 cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị S không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc M; Anh T không có ý kiến về cấp dưỡng nuôi con chung và vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không được quyền nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không được quyền nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được quyền nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không được quyền nuôi con chung.

Người được quyền nuôi con chung cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không được quyền nuôi con chung trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị S trình bày chị và anh T không có tài sản chung, không có nợ ai và không cho ai nợ. Anh T không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung và vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị S phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị Ngọc S được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị Ngọc S tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Ngọc M, sinh ngày 30/7/2014 cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng, hiện con chung đang sống chung với chị S.

Về cấp dưỡng dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, người không được quyền nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không được quyền nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được quyền nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không được quyền nuôi con chung.

Người được quyền nuôi con chung cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không được quyền nuôi con chung trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Trương Thị Ngọc S phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005411 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp. Chị S đã nộp xong tiền án phí dân sự.

Anh Nguyễn Thanh T không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về