Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

 Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Mỹ C, sinh năm: 1980 (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Hữu D, sinh năm: 1978 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 09/3/2021 và quá trình giải quyết vụ án, chị Đinh Thị Mỹ C là nguyên đơn trình bày:

Chị C và anh D tự nguyện kết hôn năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện GR. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Cuối năm 2018, chị C và anh D tự chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau cho đến nay, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Quá trình chung sống chị C và anh D có một người con là cháu Trần Thị Mỹ O, sinh ngày 18/7/2000.

Chị C xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh D nên cương quyết yêu cầu được ly hôn; về con chung: Cháu O trên 18 tuổi, chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản và nợ: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Hữu D là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị C, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của chị C đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh D là bị đơn chưa thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị C và anh D tự nguyện kết hôn năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện GR nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị C xác định thời gian đầu chung sống hạnh phúc, năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống. Cuối năm 2018, chị C và anh D tự chấm dứt quan hệ hôn nhân cho đến nay, không còn liên hệ với nhau, quá trình giải quyết vụ án chị C xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh D, điều này cho thấy hôn nhân của chị C và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, việc chị C yêu cầu được ly hôn với anh D là có cơ sở, anh D không có ý kiến phản đối, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C đối với anh D.

Về con, về tài sản và nợ: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Đinh Thị Mỹ C yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trần Hữu D, đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Trần Hữu D là bị đơn cư trú tại huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh D. Tuy nhiên, anh D không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị C giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị C và anh D.

[2]. Về nội dung vụ án:

Chị C và anh D kết hôn năm 1999, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã P, huyện GR, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/4/1999 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án, chị C xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống. Cuối năm 2018, chị C và anh D tự chấm dứt quan hệ vợ chồng cho đến nay, không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, chị C và anh D đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Kết quả Tòa án xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị C và anh D tại nơi cư trú, Trưởng ấp T, xã P, huyện GR cho biết: Ban lãnh đạo ấp không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị C và anh D. Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị C và anh D nhưng không đạt kết quả do anh D vắng mặt, chị C xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh D nên cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị C và anh D đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị C yêu cầu ly hôn với anh D là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Chị C xác định chị và anh D có một người con chung là cháu Trần Thị Mỹ O, sinh ngày 18/7/2000 đã trên 18 tuổi, chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản và nợ: Chị C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. [3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 96, điểm a, b khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị Mỹ C đối với anh Trần Hữu D.

2. Về án phí: Chị Đinh Thị Mỹ C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002150 ngày 09/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện GR, tỉnh Kiên Giang, chị C đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Đinh Thị Mỹ C và anh Trần Hữu D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về