Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Ngọc L, sinh năm 1983.

Địa chỉ: 437, ấp 1, xã 4, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số 345, ấp 2, xã 3, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 06/01/2022, Biên bản phiên họp ngày 05/4/2022, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hồ Thị Ngọc L trình bày:

Chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N do quen biết, tìm hiểu nên được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2007. Sau đó đăng ký kết hôn tại UBND xã 4, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 28/8/2007. Việc anh chị chung sống với nhau là tự nguyện, không bị ai cưỡng ép hay lừa dối kết hôn.

Trong thời gian chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N chung sống với nhau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng hay cãi vã. Vợ chồng cố gắng tạo lập gia đình hạnh phúc N1ng không được. Anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay. Hiện nay, vợ chồng không còn tình cảm với nhau.

Nay chị Hồ Thị Ngọc L yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

+ Về con chung: Chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N có hai con chung là Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009. Chị Hồ Thị Ngọc L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009 đến khi thành niên. Chị Hồ Thị Ngọc L không yêu cầu anh Nguyễn Văn N cấp dưỡng nuôi con.

Hiện nay chị L làm vườn tại nhà thu nhập hàng tháng khoảng 3.000.000đ.

+ Về tài sản chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn N không có ý kiến trình bày.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm: Đơn khởi kiện; Giấy chứng nhận kết hôn; Giấy khai sinh của Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009; Căn cức công dân của chị Hồ Thị Ngọc L; Đơn xin xác nhận nơi cư trú của người bị kiện; Đơn xin xét xử vắng mặt; Bản khai ý kiến con chưa thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Theo yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị Ngọc L và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Văn N cư trú tại số 345, ấp 2, xã 3, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 04 tháng 5 năm 2022 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 42/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022 vụ án được xét xử vào lúc 13 giờ 30 ngày 14 tháng 6 năm 2022 bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Văn N là phù hợp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N do quen biết nên tổ chức đám cưới vào năm 2007 và anh chị đi đăng ký kết hôn tại UBND xã 4, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 28/8/2007. Việc kết hôn giữa chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N là đúng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hồ Thị Ngọc L xác định: Trong thời gian chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N chung sống với nhau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng hay cãi vã. Vợ chồng cố gắng tạo lập gia đình hạnh phúc N1ng không được. Hiện nay, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay. Điều này chứng minh, hôn nhân giữa chị Hồ Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn, nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Do đó chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hồ Thị Ngọc L đối với anh Nguyễn Văn N là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Xét thấy, cháu Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009 đang sống với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi dưỡng 02 cháu đến khi thành niên. Để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần cho cháu L1, cháu N1 và tránh việc thay đổi môi trường sống cho 02 cháu. Đồng thời, nguyện vọng của cháu L1, cháu N1 là có nguyện vọng chung sống với chị L. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu được tiếp tục nuôi con của chị L. Giao cháu Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Chị Hồ Thị Ngọc L trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không cản trở anh Nguyễn Văn N không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là phù hợp với các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hồ Thị Ngọc L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hồ Thị Ngọc L xác định chị và anh Nguyễn Văn N không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, N1ng không có ý kiến của anh Nguyễn Văn N, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này; nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị Hồ Thị Ngọc L phải chịu án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228, 238, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 69, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị Ngọc L.

- Về hôn nhân: Chị Hồ Thị Ngọc L được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn L1, sinh ngày 17/7/2007 và Nguyễn Huỳnh N1, sinh ngày 05/10/2009 cho chị Hồ Thị Ngọc L được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai cản trở. Chị Hồ Thị Ngọc L cùng các thành viên gia đình không cản trở anh Nguyễn Văn N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

Chị Hồ Thị Ngọc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), N1ng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001352 ngày 06/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Chị Hồ Thị Ngọc L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Văn N không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về