Bản án về tranh chấp hôn nhân, gia đình số 48B/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 48B/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH

Trong ngày 13/8/2021 tại Toà án huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 40/2021/TLST-HNGĐ ngày 29/01/2021 về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST- DS ngày 04/5/2021, các thông báo thay đổi thời gian xét xử và quyết định hoãn phiên tòa số 20/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15/7/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Triệu Thi M, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã Bình Long, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

- B đơn: Anh Dương Văn H, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 04/01/2021 và bản tự khai tiếp theo, nguyên đơn chị Triệu Thị M trình bày: Chị và anh Dương Văn H kết hôn ngày 18/12/2008, kết hôn do tự nguyện và có ĐKKH tại UBND xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do tính cách và quan điểm sống của hai vợ chồng không hợp nhau;

ngoài ra anh H còn hay cờ bạc. Khi mâu thuẫn xảy ra, chị đã khuyên bảo anh H nhiều lần, nH anh H không thay đổi tính nết mà còn đánh đập chị. Do mâu thuẫn căng thẳng, nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên sinh sống và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan hệ tình cảm, không quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, không còn khả năng về đoàn tụ được nữa, do đó chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dương Văn H.

+ Về con chung: Vợ chồng chị sinh được một con chung là Dương Ngọc Hồng, sinh ngày 20/5/2010, hiện con đang ở cùng bố, con khỏe mạnh, phát triển bình thường và con có đơn trình bầy nguyện vọng muốn được tiếp tục ở với bố. Do vậy chị đề nghị Tòa án giao con cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con và chị tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng kể từ tháng 9/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

+ Về tài sản chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung gì, nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Đối với bị đơn: Anh Dương Văn H đã được Tòa án giao các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định của BLTTDS, nH anh H không hợp tác nên không có bản khai của anh H trong hồ sơ vụ án.

- Tại phiên tòa hôm nay: Chị Triệu Thị M giữ nguyên các yêu cầu của mình .

- Kiểm sát viên trình bầy quan điểm và đề xuất:

+ Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và HĐXX: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ tranh chấp, giao các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định của pháp luật. HĐXX thực hiện đúng các quy định về phiên tòa sơ thẩm.

+ Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn chị M thực đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Bị đơn anh H không thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, như không đến Tòa làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án, vắng mặt tại các phiên hòa giải, các phiên tòa không có lý do.

+ Đề xuất: Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về lệ phí, án phí Tòa án; Xử: Cho chị Triệu Thị M được ly hôn anh Dương Văn H.

+ Con chung: Xử giao cho anh Dương Văn H nuôi con Dương Ngọc H, sinh ngày 20/5/2010 đến khi con đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Triệu Thị Mếm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 09/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

+ Án phí: Chị Triệu Thị M chịu án phí theo quy định pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của đương sự, của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn khởi kiện của chị Triệu Thị M đã hợp lệ về hình thức và nội dung theo quy định pháp luật. Tòa án đã tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy địn của BLTTDS. Bị đơn anh Dương Văn H đã được giao các văn bản tố tụng đúng quy định pháp luật, nhưng anh H không không đến Tòa làm việc theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án, vắng mặt tại các phiên hòa giải, các phiên tòa không có lý do. Do đó, HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh H theo quy định của BLTTDS.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình; Trong đó vị đơn có HKTT và nơi cư trú tại huyện Lạng Giang, nên thuộc thẩm quyền quyền giải quyết của Tòa án huyện Lạng Giang theo quy định của BLTTDS.

[3] Về nội dung vụ kiện: Chị M và anh H kết hôn ngày 18/12/2008, kết hôn do tự nguyện, có ĐKKH tại UBND xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách và quan điểm sống của hai vợ chồng không hợp nhau. Ngoài ra anh H thường hay cờ bạc, nên trong cuộc sống vợ chồng thường xảy ra cãi cọ, xô xát với nhau. Chị M bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ở từ năm 2019 và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H và giải quyết về con chung sau ly hôn.

HĐXX xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng chị M, anh H đã đến mức trầm trọng và kéo dài, không còn khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H là có căn cứ, phù hợp với các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, nên được chấp nhận.

+ Về con chung: Chị M và anh H sinh được một con là Dương Ngọc Hồng, sinh ngày 20/5/2010. Hiện cháu Hồng đang ở cùng với bố, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường, cháu Hồng có đơn trình bầy nguyện vọng xin được tiếp tục ở với bố nếu bố mẹ cháu ly hôn và chị M cũng đồng ý để cháu Hồng được ở với bố theo nguyện vọng của cháu Hồng, chị tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi.

HĐXX xét thấy: Cháu Hồng có nguyện vọng xin được tiếp tục ở với bố nếu như bố mẹ cháu ly hôn và chị M cũng đồng ý, chị M tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi. Nguyện vọng trên của cháu Hồng là chính đáng, phù hợp với điều kiện thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận và tiếp tục giao cho anh H nuôi dưỡng cháu Hồng đến khi đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của chị M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi. Sau ly hôn chị M được quyền thăm con, không ai được cản trở chị M thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con Tòa án có thể thụ lý yêu cầu về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, nếu chị M có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

+ Về tài sản chung: Chị M xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết trong vụ án này.

[4] Về án phí: Chị M nhận chịu toàn bộ án phí theo quy định pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/Điều luật áp dụng: Áp dụng các Điều 28, 35, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, xử:

2/Quan hệ hôn nhân: Cho chị Triệu Thị M được ly hôn anh Dương Văn H.

3/Con chung: Giao anh Dương Văn H nuôi con chung Dương Ngọc Hồng, sinh ngày 20/5/2010 đến khi đủ 18 tuổi. Chị Triệu Thị M cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 09/2021 đến khi con đủ 18 tuổi và chị Triệu Thị M có quyền thăm con, không ai được cản trở chị M thực hiện quyền này.

4/Án phí: Chị Triệu Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí HNGĐ-ST và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Được khấu trừ 300.000đồng tạm ứng án phí mà chị Triệu Thị M đã nộp trong biên lai thu số AA/2019/0002850 ngày 29/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang. Chị Triệu Thị M còn phải nộp thêm 300.000 đồng án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5/Quyền kháng cáo: Báo cho đương sự (có mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao hoặc niêm yết công khai bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân, gia đình số 48B/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48B/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về