Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 19/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 172/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Xóm 3, xã K, huyện K, tỉnh N, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lữ Quyết T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị L trình bày: Chị và anh Lữ Quyết T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H (nay là xã L), huyện H, tỉnh T ngày 21/6/2012. Vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T chơi bời, có quan hệ ngoại tình với người khác và thường xuyên đánh đập chị. Do không chịu đựng được nên chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và sống ly thân với anh T từ tháng 02 năm 2014 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị L đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lữ Quyết T.

Về con chung: Chị L khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Lữ Quyết B, sinh ngày 02/01/2013, hiện nay cháu B đang ở với chị L. Chị L đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu B, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Lữ Quyết T đến Toà án để viết bản khai nhưng anh T không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh T.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị L đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh T và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu B, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chịlà phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83, khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Lữ Quyết T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh T không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh T cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Lữ Quyết T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị L, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi bời, có quan hệ ngoại tình với người khác và thường xuyên đánh đập chị. Kết quả xác minh ngày 15/01/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L cũng cho thấy, quá trình chung sống chị L và anh T xảy ra mâu thuẫn, đến đầu năm 2014 chị đã L bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xóm 3, xã K, huyện K, tỉnh N sinh sống và sống ly thân với anh T cho đến nay. Một thời gian dài vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung giữa chị L và anh T đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị L được ly hôn với anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Phạm Thị L khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Lữ Quyết B, sinh ngày 02/01/2013. Chị L cũng xuất trình cho Tòa án bản sao giấy khai sinh của cháu B, trong đó xác định cháu B là con chung của chị L và anh T. Mặt khác, cháu B được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu B là con chung của chị L và anh T. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu B do chị L nuôi dưỡng, cháu B cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như việc học tập của cháu, giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L về việc không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

[4]. Về tài sản: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83, khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị L và anh Lữ Quyết T.

2. Về con chung: Công nhận cháu Lữ Quyết B, sinh ngày 02/01/2013 là con chung của chị L và anh T. Giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị L.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009225 ngày 28/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 19/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về