Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 04/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 201/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đỗ Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 13/12/2010. Vợ chồng chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng vẫn không hàn gắn được. Chị H và anh T đã sống ly thân từ giữa năm 2018 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị H khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Nguyễn Văn H, sinh ngày 25/6/2011 và cháu Nguyễn Minh H1, sinh ngày 07/8/2016. Chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu H và H1, yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng mỗi cháu là 1.000.000 đồng, hai cháu là 2.000.000 đồng/1 tháng, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập anh Nguyễn Văn T đến Toà án để viết bản khai nhưng anh T không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của anh Toàn.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị H đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh T và được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và cháu H1, yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000 đồng, hai cháu là 2.000.000 đồng/1 tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hạnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh Toàn không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Anh T cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị H và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị H, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ, mắng chửi nhau. Chị H và anh T đã sống ly thân từ giữa năm 2018 đến nay. Kết quả xác minh ngày 07/12/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống chị H và anh T xảy ra mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Một thời gian dài vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng giữa chị H và anh T đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị H được ly hôn với anh T là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị H khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Nguyễn Văn H, sinh ngày 25/6/2011 và cháu Nguyễn Minh H1, sinh ngày 07/8/2016. Chị H cũng xuất trình cho Tòa án giấy khai sinh của cháu H và cháu H1, trong đó xác định cháu H và cháu H1 là con chung của chị H và anh T. Mặt khác, cháu H và cháu H1 được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu H và cháu H1 là con chung của chị H và anh T. Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu H1 do chị H nuôi dưỡng, cháu H do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, Tuy nhiên anh T hiện không có mặt tại địa phương, Tòa án đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng anh T vẫn không có mặt nên giao cháu H và cháu H1 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng mỗi cháu là 1.000.000 đồng, hai cháu là 2.000.000 đồng/1 tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 2/2021 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 81; 82;83; khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật. Anh T phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83, khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị H và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Văn H, sinh ngày 25/6/2011 và cháu Nguyễn Minh H1, sinh ngày 07/8/2016 là con chung của chị H và anh T. Giao cháu H và cháu H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng mỗi cháu là 1.000.000 đồng, hai cháu là 2.000.000 đồng/1 tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 2/2021 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Anh T có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị H.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009254 ngày 20/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị H đã nộp đủ án phí. Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 04/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về