TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 106/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 340/ 2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “Hôn nhân gia đình - Ly hôn và nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2021 giữa:
1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn Th, sinh năm 1991.
Nơi cư trú: Tổ 01, ấp Phú Tr, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Chị Phan Thị Thúy A, sinh năm 1994.
Nơi cư trú: Tổ 01, ấp Phú Tr, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang. (Anh Th, chị A vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 03/9/2020, bản tự khai nguyên đơn anh Phạm Văn Th trình bày: Anh và chị Phan Thị Thúy A sau khi tìm hiểu và được gia đình hai bên thống nhất, có tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 53/2012 ngày 24/5/2012, chung sống thời gian đầu hạnh phúc, về sau phát sinh mẫu thuẫn, thường xuyên cự cải, do bất đồng quan điểm, nguyên nhân chủ yếu là vấn đề kinh tế gia đình, đến khoảng năm 2014, chị An tự ý bỏ đi, không quan tâm chăm sóc gia đình, dù anh Th đã nhiều lần khuyên ngăn muốn hàn gắn nhưng không được, vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2014 cho đến nay, không ai quan tâm ai.
Hiện tình cảm không còn không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên yêu cầu ly hôn với chị Phan Thị Thúy A Về con chung: có 02 con chung tên Phạm Thị Trúc L, sinh ngày 21/5/2011 và Phạm Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 02/5/2013, anh Th đang chăm sóc nuôi dưỡng. Anh Th yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu chị An cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không có ý kiến nào khác.
- Bị đơn chị Phan Thị Thúy An đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không có lời trình bày.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:
- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên chị An vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
- Về nội dung: Hôn nhân của anh Th và chị A được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của anh Th xin ly hôn và nuôi con chung là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị A, yêu cầu được nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thẩm quyền giải quyết: Chị Phan Thị Thúy A là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp Phú Tr, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Chị Phan Thị Thúy A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, anh Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị A và anh Th theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Anh Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị A, yêu cầu được nuôi con chung. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập năm 2012 trên cơ sở tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, đến năm 2014 chị A bỏ đi, không ai quan tâm ai, sau thời gian dài ly thân đến nay cả hai không hàn gắn được, từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh Th yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
Về nuôi con chung: Anh, chị có 02 con chung tên Phạm Thị Trúc L, sinh ngày 21/5/2011 và Phạm Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 02/5/2013, anh Th đang chăm sóc nuôi dưỡng. Anh Th yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con, không yêu cầu chị A cấp dưỡng. Xét, từ khi ly thân đến nay cháu Nh và L do anh Th trực tiếp chăm sóc, giáo dục đảm bảo phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và 02 cháu có nguyện vọng sống với cha, căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cần giao các cháu cho anh Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con đến thành niên hoặc tự lập được; chị A không phải cấp dưỡng cho con chung; anh Th phải tạo mọi điều kiện Th lợi để chị A đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con; mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, anh Th không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa Th về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Th và chị A phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.
[3] Về án phí: Anh Th phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001504 ngày 04/10/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Chị An không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
- Về hôn nhân: Anh Phạm Văn Th được ly hôn với chị Phan Thị Thúy A.
Giấy chứng nhận kết hôn số số 53/2012 ngày 24/5/2012 của Ủy ban nhân dân xã Phú Thành, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho anh Phạm Văn Th và chị Phan Thị Thúy An không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về con chung: Anh Phạm Văn Th được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung tên Phạm Thị Trúc L, sinh ngày 21/5/2011 và Phạm Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 02/5/2013, đến thành niên hoặc tự lập được; chị Phan Thị Thúy An không phải cấp dưỡng cho con.
- Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Văn Th phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001504 ngày 04/10/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Chị A không phải chịu án phí.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Th thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 106/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 106/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về