TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 630/2022/LĐ-PT NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Trong các ngày 21/9/2022 và 29/9/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2022/TLPT-LĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022, về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LD-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4910/2022/TLPT-LĐ ngày 09/9/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1992;
Hộ khẩu thường trú: Tổ G, Ấp E, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước;
Địa chỉ thường trú: T, T, Hà Tĩnh;
Địa chỉ liên hệ: 2 N, Phường I, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: bà Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1997; địa chỉ: A L, C, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc ông Vũ Văn H1, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn D, B, B, Bình Phước, (có mặt).
- Bị đơn: Công ty Cổ phần X;
Người đại diện theo pháp luật: ông Bùi Đức T, sinh năm 1984; chức danh: Giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: bà Trần Thị Bích V, sinh năm 1988; địa chỉ trụ sở: E Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Đinh Thị Thu H2 - Đoàn Luật sư Thành phố H - Công ty L1, (có mặt).
- Người làm chứng:
1. Bà Lê Thị Mỹ H3, sinh năm 1992;
2. Bà Phạm Ngọc L, sinh năm 1992;
Cùng địa chỉ: E Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (Có đơn xin vắng mặt).
Người kháng cáo: Ông Vũ Văn H1 là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 11 năm 2021, bản tự khai, các lần làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và người đại diện của nguyên đơn trình bày:
Ngày 10/12/2020, bà Trần Thị H và Công ty Cổ phần X (sau đây gọi tắt là Công ty) có ký kết hợp đồng lao động số: 13/2020/HĐLĐ/BG, theo hợp đồng lao động này thì bà H làm việc tại Công ty với chức danh Kế toán tổng hợp, mức lương chính là: 13.200.000 đồng, thời hạn hợp đồng là 12 tháng từ ngày 10/12/2020 đến ngày 31/12/2021. Trong thời gian làm việc tại Công ty, bà H luôn hoàn thành công việc theo đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, không để xảy ra sai phạm làm thiệt hại hay ảnh hưởng tới Công ty. Đến ngày 09/3/2021, bà H bất ngờ nhận được Quyết định số: 05-03-2021 của Công ty “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động”. Theo quyết định này thì bà H “được nghỉ việc từ ngày 09/4/2021” với lý do: “không đáp ứng được yêu cầu công việc”. Kèm theo Quyết định này còn có Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 “V/v: Điều chuyển nhân sự” theo Quyết định này bà H được chuyển sang làm Kế toán bán hàng. Bà H vẫn tiếp tục vào làm việc theo Quyết định điều chuyển. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc bà H luôn bị gây cản trở, xúc phạm. Đỉnh điểm ngày 16/3/2021, Công ty còn cho người kéo bà H đuổi khỏi Công ty. Nhưng hôm sau bà H vẫn tiếp tục đến làm việc tại Công ty cho đến hết ngày 08/04/2021. Khoảng ngày 30/03/2021, Công ty đưa cho bà H biên bản vi phạm kỷ luật số: 01./2021./BG đề ngày 27/02/2021, văn bản này bà H không hề hay biết khi lập và trong biên bản không có chữ ký của bà H. Đến ngày 08/4/2021, Công ty đưa cho bà H biên bản thanh lý hợp đồng và thỏa thuận chấm dứt hợp đồng buộc bà H phải ký vào hai văn bản này. Bà H có đọc qua hai văn bản này, nhưng thấy nội dung không đúng với ý chí của mình nên bà H không ký và Công ty cũng không giao hai văn bản này cho bà H. Công ty cũng không quyết toán tiền lương và các khoản thu nhập khác cho bà H. Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
Tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” là trái pháp luật.
Cụ thể như sau:
- Thanh toán tiền lương tháng 03/2021 với số tiền là 11.244.444 đồng - Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (tính từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021) với số tiền cụ thể là: 13.200.000 đồng x 09 tháng = 118.800.000 đồng.
- Trả thêm ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 13.200.000 đồng x 02 tháng = 26.400.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty phải thanh toán cho bà H là: 156.444.444 đồng.
Ngoài ra, Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà H, cụ thể như sau:
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Hiền từ tháng 04/2021 đến tháng 12/2021, với mức lương 13.200.000 đồng.
- Đóng thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tháng 12/2020 còn thiếu cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng.
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thiếu từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng.
Ý kiến của bị đơn: Bị đơn không đồng ý với yêu cầu trên của bà H vì Công ty đã cho bà H nghỉ việc theo Quyết định số: 05-032021 ngày 09/3/2021 là đúng pháp luật.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn: Do bà H không thực hiện báo cáo thuế quý 4/2020, không thực hiện báo cáo tài chính năm 2020 mặc dù bà H ký hợp đồng lao động từ tháng 12/2020 và nguyên tắc của công việc kế toán là mang tính kế thừa và liên tục. Bà H không thực hiện các loại báo cáo của Công ty theo quy định của nhà nước là: báo cáo hàng tồn kho, báo cáo thu chi, báo cáo chi tiết công nợ phải thu phải trả, báo cáo chi tiết các tài khoản, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh... tháng 12/2020, tháng 1, 2/2021. Cụ thể các lần không hoàn thành báo cáo đã được ghi nhận ở các biên bản nhắc nhở vi phạm của Công ty đối với bà H. Ngoài ra một số chứng từ, sổ sách kế toán của Công ty không có bất cứ bút tích nào của bà H. Về trình tự thủ tục khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà H thì Công ty đã tuân thủ điểm b khoản 2 Điều 36, Điều 45 Bộ luật lao động như đã có Thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động ngày 06/02/2021 gửi cho bà H. Trong quá trình làm việc bà H đã không hoàn thành công việc lại còn ra mặt thách thức, đối phó gây mất đoàn kết nội bộ ảnh hưởng đến tâm lý của các nhân viên khác trong Công ty, việc này đã thể hiện Biên bản nhắc nhở bà H. Hơn nữa theo lời khai của bà Phạm Ngọc T là nhân viên kế toán của Công ty thì: trong thời gian là người phụ trách về phần kế toán của Công ty, bà H đã hướng dẫn bà L làm các bảng lương của nhân viên trong đó có cụ thể mức lương để tham gia bảo hiểm xã hội. Nếu theo Hợp đồng lao động bà H đã ký với Công ty thì Công ty phải cho bà H tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 12/2020, nhưng bà H đã trực tiếp chỉ đạo bà L là sẽ tham gia bảo hiểm xã hội cho bà H kể từ tháng 01/2021 với lý do bà H đưa ra là để bà H hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở đơn vị cũ, chính vì vậy ngày 28/01/2021 bà H mới cung cấp toàn bộ sổ bảo hiểm xã hội để làm thủ tục đóng bảo hiểm xã hội cho bà H. Hành vi này của bà H là mục đích trục lợi quỹ bảo hiểm thất nghiệp của nhà nước và một lần nữa khẳng định việc bà H nắm rất rõ các mức lương tham gia bảo hiểm xã hội của Công ty. Việc bà H không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động của Công ty và người lao động khác, khi ký hợp đồng lao động với bà H thì Công ty luôn mong muốn bà H cùng tập thể cán bộ nhân viên trong Công ty hoàn thành tốt công việc được giao, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà H là điều Công ty không bao giờ mong muốn, xong với những vi phạm của bà H thì Công ty buộc phải đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà H để không làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của Công ty.
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019, khoản 1 Điều 12 Nghị định 05/2015/NĐ-CP để xác định Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” đối với bà H là đúng với P và không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LĐ-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Điều 34, Điều 36, Điều 45 Bộ luật lao động năm 2019;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty “v/v: Cho thôi việc/nghỉ việc” là trái pháp luật và không chấp nhận yêu cầu bồi thường của bà H.
Về án phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn án phí vì có đơn xin miễn án phí.
Bị đơn không phải chịu án phí.
Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát và việc thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 14/6/2022, nguyên đơn bà Trần Thị H có người đại diện theo ủy quyền là ông Vũ Văn H1 nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 24/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 06/QĐKNPT-VKS-LĐ Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LĐ-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, sửa án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H gồm:
- Tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” là trái pháp luật.
- Thanh toán tiền lương tháng 03/2021 với số tiền là 11.244.444 đồng - Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (tính từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021) với số tiền cụ thể là: 13.200.000 đồng x 09 tháng = 118.800.000 đồng.
- Trả thêm ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 13.200.000 đồng x 02 tháng = 26.400.000 đồng.
- Trả 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động do không nhận bà H trở lại làm việc: 13.200.000 đồng x 02 tháng = 26.400.000 đồng.
Ngoài ra, Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà H, cụ thể như sau:
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Hiền từ tháng 04/2021 đến tháng 12/2021, với mức lương 13.200.000 đồng;
- Đóng thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tháng 12/2020 còn thiếu cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng);
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thiếu từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng).
Thi hành việc trả tiền và đóng bảo hiểm xã hội ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các bên đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đơn kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh là trong hạn luật quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về kháng nghị: vẫn giữ nguyên đề nghị kháng nghị bản án sơ thẩm của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò vấp. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị số 06/QĐKNPT-VKS-LĐ của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò vấp với các nội dung xác định bản án sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì không giải quyết và tuyên án hết những yêu cầu có tranh chấp của đương sự được quy định tại các Điều 5, 17, 70 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự hủy bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LĐ-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Do đề nghị hủy án sơ thẩm do vi phạm tố tụng nên không đề nghị xem xét về nội dung vụ án cũng như yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị không chấp nhận kháng cáo và kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, giải thích pháp luật và động viên các bên hòa giải nhưng không thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
Ngày 08/6/2022, Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên án vụ án. Ngày 14/6/2022, nguyên đơn bà Trần Thị H có người đại diện theo ủy quyền là ông Vũ Văn H1 nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị H có người đại diện theo ủy quyền là ông Vũ Văn H1 được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm. Ngày 24/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 06/QĐKNPT-VKS-LĐ Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LĐ-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân Quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh là đúng thời hạn theo quy định của pháp luật nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh:
Về vi phạm thủ tục tố tụng của bản án sơ thẩm:
Căn cứ đơn khởi kiện ngày 08 tháng 11 năm 2021 và yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên án đối với bị đơn là Công ty Cổ phần X, cụ thể như sau:
- Tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” là trái pháp luật.
- Thanh toán tiền lương tháng 03/2021 với số tiền là 11.244.444 đồng - Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (tính từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021) với số tiền cụ thể là: 13.200.000 đồng x 09 tháng = 118.800.000 đồng.
- Trả thêm ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 13.200.000 đồng x 02 tháng = 26.400.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty phải thanh toán cho bà H là: 156.444.444 đồng.
Ngoài ra, Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà H, cụ thể như sau:
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Hiền từ tháng 04/2021 đến tháng 12/2021, với mức lương 13.200.000 đồng;
- Đóng thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tháng 12/2020 còn thiếu cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng);
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thiếu từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng.
Xác định Hội đồng xét xử sơ thẩm phải xem xét giải quyết toàn bộ những yêu cầu của đương sự như trên, tuy nhiên phần nhận định của bản án sơ thẩm chỉ đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật để xem xét yêu cầu tuyên bố Quyết định số: 05-032021/QĐCD/BGCO ngày 09/3/2021 của Công ty cổ phần X “V/v: Cho thôi việc/nghỉ việc, chấm dứt Hợp đồng lao động” đối với bà Trần Thị H là trái pháp luật hay đúng pháp luật. Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuyên án không chấp nhận yêu cầu nêu trên của nguyên đơn cùng với việc không chấp nhận yêu cầu bồi thường của bà H nhưng không nêu rồ bồi thường những khoản nào. Căn cứ theo các quy định tại Điều 39 và 41 Bộ luật lao động năm 2019 thì nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật trong vụ án này (nếu có) được xác định gồm các yêu cầu (Được xem là yêu cầu bồi thường của người lao động khi bị người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật):
- Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (tính từ tháng 4/2021 đến tháng 12/2021) với số tiền cụ thể là: 13.200.000 đồng x 09 tháng = 118.800.000 đồng.
- Trả thêm ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 13.200.000 đồng x 02 tháng = 26.400.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty phải trả cho bà H là: 156.444.444 đồng.
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Hiền từ tháng 04/2021 đến tháng 12/2021, với mức lương 13.200.000 đồng.
Như vậy, bản án sơ thẩm chưa xem xét và tuyên án đối với các yêu cầu khác của nguyên đơn gồm:
- Thanh toán tiền lương tháng 03/2021 với số tiền là 11.244.444 đồng;
- Đóng thêm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tháng 12/2020 còn thiếu cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng);
- Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thiếu từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 cho bà H với mức lương 13.200.000 đồng (Công ty chỉ đóng trên mức lương là 4.800.000 đồng).
Do đó, xác định án sơ thẩm xét xử và tuyên án chưa đủ các yêu cầu của đương sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo quy định tại các Điều 5, 17, 70 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự. Vi phạm thủ tục tố tụng nêu trên của bản án sơ thẩm cũng đã được Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nêu rõ trong nội dung của Quyết định kháng nghị và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.
Từ những nhận định trên cũng như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị số 06/QĐKNPT-VKS-LĐ ngày 24/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh và chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn. Áp dụng Khoản 3, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy bản án sơ thẩm. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn: Như đã nhận định phần trên, cần phải hủy án sơ thẩm do vi phạm thủ tục tố tụng nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về vi phạm thủ tục tố tụng của cấp sơ thẩm, về phần kháng cáo đối với các yêu cầu của nguyên đơn cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.
[3] Ngoài ra, cấp sơ thẩm cần lưu ý khi thụ lý và giải quyết lại vụ án đối với yêu cầu tranh chấp về tiền lương nếu các bên đương sự không tự thương lượng hòa giải được với nhau thì các bên phải tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo quy định tại Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019 trước khi khởi kiện tại Tòa án; Đối với án phí của người lao động khởi kiện cần áp dụng đúng quy định theo Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Q; Đối với việc giải quyết về nội dung vụ án, cần thu thập thêm tài liệu, chứng cứ trực tiếp liên quan đến các yêu cầu của đương sự, cụ thể gồm: Nội quy; Quy chế; Thỏa ước lao động tập thể của người sử dụng lao động; Xác minh việc đóng bảo hiểm xã hội. Xem xét và đánh giá các chứng cứ mà các bên đã nộp bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm để giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 293 và khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần kháng nghị số 06/QĐKNPT-VKS-LĐ ngày 24/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh và chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn.
Hủy bản án lao động sơ thẩm số 07/2022/LĐ-ST ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Án phí lao động sơ thẩm: Sẽ được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết khi thụ lý giải quyết lại vụ án.
Án phí lao động phúc thẩm: Bà Trần Thị H được miễn nộp án phí. Trả lại cho Bà Trần Thị H số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0048614 ngày 16/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 630/2022/LĐ-PT
Số hiệu: | 630/2022/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về