Bản án về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 03/2024/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2024/LĐ-PT NGÀY 15/01/2024 VỀ TRANH CHẤP TRƯỜNG HỢP BỊ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 26/2023/TLPT-LĐ ngày 08/12/2023 về việc “tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 07/2023/LĐ-ST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 26/2023/QĐ-PT ngày 18/12/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2023/QĐ-PT ngày 29/12/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1988. Hộ khẩu thường trú: xóm D, xã K, huyện N, tỉnh Nghệ An. Địa chỉ liên lạc: số 647/18/2/1 Quốc lộ A, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn Viết H, sinh năm 1982 hoặc ông Trần Minh H1, sinh năm 1983; địa chỉ liên hệ: 647/18/2/1 Quốc lộ A, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Văn bản ủy quyền ngày 27/7/2023). Ông H có mặt, ông H1 vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty TNHH R. Địa chỉ: Lô S, đường số C, Khu công nghiệp Q, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: bà Nguyễn Thu N, sinh năm 1994; bà Nguyễn Quỳnh T1, sinh năm 1998 (theo Văn bản ủy quyền ngày 28/12/2023). Bà N có mặt, bà T1 vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: bà Ngô Thị Kim T2, sinh năm 1985 là Luật sư Công ty L và các cộng sự. Luật sư T2 có mặt.

Cùng địa chỉ: căn A, A, Paris H, số C đường số A phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Nguyễn Thị T.

- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 29/6/2023, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 21/8/2023, lời trình bày của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Nguyễn Viết H trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Ngày 16/4/2023, bà T và Công ty TNHH R (gọi tắt là Công ty R1 hoặc Công ty) ký Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ để bà T vào làm việc cho Công ty với vị trí kế toán. Thời hạn: 01 năm (từ ngày 16/4/2023 đến ngày 15/4/2024). Mức lương cụ thể như sau: mức lương chính là 20.000.000 đồng, phụ cấp trách nhiệm là 3.000.000 đồng, phụ cấp lương kỹ thuật là 2.000.000 đồng, cơm trưa là 650.000 đồng. Tổng cộng: 25.650.000 đồng.

Ngày 04/5/2023, bà T đến Công ty làm việc, ông A không đến. Do mưa gió nên wifi trong Công ty bị hư. Bà T có kêu người đến để sửa wifi và điện thoại báo cho ông A biết việc này. Tuy nhiên, ông A cứ hỏi bà T tại sao wifi hư và yêu cầu bà phải giải thích. Bà T cũng đã giải thích cho ông A biết là do trời mưa nên wifi bị hư. Ngày 05/5/2023, bà T điện thoại hỏi ông A về tolken (thiết bị ký số) để bà T thực hiện công việc chuyên môn về kế toán thì ông A không cung cấp mà lại tiếp tục yêu cầu bà T giải thích tại sao wifi hư. Bà T cũng đã giải thích lại.

Ngày 08/5/2023, ông A đến Công ty làm việc và mang theo các Biên bản về việc vi phạm kỷ luật đề các ngày 11/4/2023, 04/5/2023, 08/5/2023, 10/5/2023, 11/5/2023, 16/5/2023 do ông tự ghi. Các nội dung trong biên bản thể hiện bà T vi phạm là không đúng sự thật và thời gian trong biên bản do ông A tự ghi vào, chứ vào các ngày này không có những sự việc như trong biên bản thể hiện. Ông A đề nghị bà T ký tên vào các biên bản. Bà T không đồng ý do thấy nội dung biên bản không đúng sự thật. Do đó, ông A đã xé các biên bản. Vì căng thẳng nên bà T bước ra khỏi phòng làm việc một lúc rồi quay lại làm việc bình thường. Sau đó, ông A tự ghi lại nội dung các biên bản vi phạm và cho những người công nhân ký tên vào người chứng kiến. Nhưng thực tế, các công nhân này không chứng kiến sự việc.

Do căng thẳng nên bà T đề nghị cho làm việc tại nhà vào ngày 09, 10/5/2023 và được lãnh đạo bên N của Công ty chấp nhận. Ngày 11/5/2023, bà T đến Công ty làm việc thì bảo vệ không cho vào.

Công ty T4 tổ chức cuộc họp về việc chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn với bà T vào ngày 11/5/2023. Bà T không biết có cuộc họp này vì không được mời tham gia. Ngày 12/5/2023, Công ty gửi biên bản họp qua mail cho ba T thì bà T mới biết.

Ngày 16/6/2023, bà T đi ngang Công ty thì bảo vệ đưa cho bà T bản chính các biên bản vi phạm và Biên bản họp ngày 11/5/2023 được thể hiện bằng tiếng Nhật.

Ngày 17/5/2023, Công ty gửi cho bà T Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn ngày 11/5/2023 qua mail. Ngày 10/6/2023, bà T nhận trực tiếp bản chính Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn số 01-6/TBNV-POW ngày 10/6/2023 từ Công ty. Ngày 12/6/2023, bà T nhận tiền lương tháng 5/2023 với số tiền là 30.595.961 đồng.

Ngày 26/6/2023, bà T nhận trực tiếp bản chính Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động số 1105TB/RECO ngày 11/5/2023 và Quyết định nghỉ việc số 01-6/TBNV-POW ngày 10/6/2023 từ Công ty R1.

Sau khi nghỉ việc, bà T đã làm việc cho Công ty TNHH T5 và Công ty TNHHT5.

Công ty R1 đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà T là trái quy định pháp luật vì quá trình làm việc, bà T không có bất cứ vi phạm nào và thời điểm Công ty R1 cho bà T nghỉ việc thì bà đang mang thai. Nay bà T khởi kiện yêu cầu Công ty R1 phải trả và bồi thường những khoản sau:

- Buộc Công ty R1 phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà T không được làm việc từ ngày 11/5/2023 đến ngày 15/4/2024 là 11 tháng 05 ngày, cụ thể:

+ Tiền lương trong những ngày không được làm việc: 287.082.692 đồng.

+ Tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp: 88.000.000 đồng.

- Buộc Công ty R1 phải trả thêm khoản tiền ít nhất bằng hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 51.300.000 đồng.

- Buộc Công ty R1 phải nhận bà T trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết. Trong trường hợp, Công ty không nhận bà T vào làm việc thì phải bồi thường cho bà T ít nhất bằng bốn tháng tiền lương là 102.600.000 đồng.

* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Azuma Y trình bày:

Bà T vào làm thử việc cho Công ty R1 từ tháng 3/2023. Bà T và Công ty R1 có ký Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ ngày 16/4/2023 để bà T chính thức vào làm việc với vị trí là kế toán. Thời hạn: 01 năm (từ ngày 16/4/2023 đến ngày 15/4/2024) với mức lương đúng như nguyên đơn trình bày.

Quá trình làm việc, bà T có những hành vi như: không chấp hành sự phân công, chỉ thị của cấp trên trong công việc, la mắng, xé giấy tờ, không cung cấp mật khẩu máy tính của Công ty. Hành vi trên của bà T đã vi phạm khoản 5, 6 Điều 25; khoản 5 Điều 26; khoản 1.2, 1.4, 2.6 Điều 29 của Nội quy lao động do Công ty R1 ban hành.

Các vi phạm trên của bà T được ông A lập Biên bản về việc vi phạm kỷ luật vào các ngày: ngày 11/4/2023, 04/5/2023, 08/5/2023, 10/5/2023, 11/5/2023, 16/5/2023. Tuy nhiên, bà T không đồng ý ký tên vào nên ông A đã đề nghị một số công nhân có mặt tại đó ký tên vào chứng kiến. Ngày 18/5/2023, Công ty gửi cho bà T các biên bản vi phạm kỷ luật nêu trên qua mail. Đồng thời, nhờ bảo vệ Công ty đưa trực tiếp bản chính các biên bản vi phạm trên cho bà T.

Sau khi sự việc xảy ra, do sợ bà T đánh nên ông A đã đề nghị các công nhân cùng lên văn phòng làm việc chung với bà T và ông A. Khi thấy vậy, bà T có đề nghị bằng lời nói là cho bà được nghỉ việc.

Bà T cho rằng ông A tự ghi nội dung và điền ngày vào các biên bản vi phạm, cùng một lúc đưa các biên bản trên cho bà T xem và đề nghị bà T ký tên vào là không đúng sự thật. Sự việc wifi hư, bà T trình bày cũng không đúng vì vào ngày 04, 05/5/2023, ông A hỏi bà T lý do wifi hư để ông báo về Công ty bên N thì bà T không trả lời, to tiếng và có thái độ không hợp tác, không tôn trọng đối với ông A.

Bà T cho rằng bà tự làm việc tại nhà vào ngày 9, 10/5/2023 và đã được lãnh đạo Công ty Đ là không đúng. Do bà T tự ý không đến Công ty làm việc, tự làm việc ở nhà và gửi mail qua, chứ lãnh đạo Công ty không đồng ý với việc này.

Vì bà T có những hành vi vi phạm trong quá trình làm việc nên ngày 11/5/2023, Công ty đã tổ chức một cuộc họp để chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn với bà T. Thành phần tham dự cuộc họp gồm: ông Park K - Tổng Giám đốc, ông Azuma Y - Giám đốc nhà máy. Công ty không thành lập tổ chức công đoàn vì quy mô Công ty nhỏ và cũng không mời tổ chức công đoàn cấp trên đến tham gia cuộc họp này. Công ty cũng không mời bà T đến tham gia cuộc họp này. Khi cuộc họp kết thúc, ông Lê Chí T3 có điện thoại để thông báo cho bà T biết. Ngày 12/5/2023, Công ty gửi cho bà T Biên bản họp ngày 11/5/2023 qua mail.

Trước cuộc họp này, Công ty không tổ chức cuộc họp xử lý kỷ luật lao động đối với bà T vì giữa bà T và ông A đã có sự mâu thuẫn.

Ngày 11/5/2023, Công ty R1 ban hành Thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Công ty đã gửi cho bà T thông báo trên qua mail và nhờ bảo vệ đưa cho bà T bản chính của thông báo. Đồng thời, Công ty không cho bà T vào Công ty làm việc nữa.

Ngày 10/6/2023, Công ty ban hành Quyết định nghỉ việc số 01-6/TBNV-POW đối với bà T và đã giao bản chính quyết định này cho bà T. Từ trước đến nay, Công ty luôn giao cho nhân viên trong Công ty tự giữ sổ bảo hiểm xã hội nên Công ty không thực hiện việc trả sổ bảo hiểm xã hội cho bà T. Công ty cũng trả lương cho bà T từ ngày 01/5/2023 đến ngày 10/6/2023 với số tiền là 30.595.961 đồng.

Ông A không biết bà T đang mang thai khi Công ty chấm dứt hợp đồng lao động vì bà T không nói. Đến khi tham gia giải quyết vụ án, ông A mới biết do ông H trình bày. Bà T cho rằng bà đang mang thai trong thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động thì bà phải có chứng cứ chứng minh cho việc này.

Công ty R1 xác định đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà T theo đúng trình tự, thủ tục quy định nên đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T, Công ty không đồng ý. Bà T yêu cầu nhận bà vào làm việc trở lại, Công ty cũng không đồng ý.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 07/2023/LĐ-ST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Xác định Công ty R1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà Nguyễn Thị T.

- Buộc Công ty R1 có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 353.333.333 đồng (trong đó, tiền lương trong những ngày không được làm việc là 250.333.333 đồng, trả thêm hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 50.000.000 đồng, bồi thường thêm hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 50.000.000 đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu của bà T về việc buộc Công ty R1 phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 88.000.000 đồng; số tiền trả thêm và bồi thường theo hợp đồng lao động là 53.900.000 đồng; tiền lương trong những ngày không được làm việc là 37.082.692 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, trách nhiệm chậm thi hành án, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 12/10/2023, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Viết H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 11/10/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương có Quyết định kháng nghị số 24/QĐ-VKS-LĐ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán tiền lương thời gian không được làm việc từ ngày 11/5/2023 đến ngày bà T có việc làm mới (ngày 01/6/2023) và sửa một phần bản án sơ thẩm đối với phần án phí bị đơn phải chịu là 3% (Tòa án cấp sơ thẩm tính 5% là không đúng quy định của pháp luật).

Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Công ty R1 thanh toán cho bà T số tiền 216.000.000 đồng để chấm dứt toàn bộ tranh chấp liên quan đến Hợp đồng lao động và Công ty chịu án phí trên số tiền phải thanh toán.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án: tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Việc thỏa thuận của các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên Viện Kiểm sát rút Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T và đề nghị Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và tính án phí lại theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của các bên đương sự, Luật sư và quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án “Tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, bị đơn có trụ sở tại thị xã B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xét đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn được thực hiện trong thời hạn luật định, nguyên đơn được miễn nộp tạm ứng án phí nên việc kháng cáo là hợp lệ.

[2] Về nội dung: tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể như sau:

- Công ty TNHH R thanh toán cho bà Nguyễn Thị T các khoản bồi thường thiệt hại tính chung là 216.000.000 đồng (không tính cụ thể từng khoản) để chấm dứt toàn bộ tranh chấp về quyền và nghĩa vụ liên quan đến Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ ngày 16/4/2023.

- Bà Nguyễn Thị T cam kết không còn bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ ngày 16/4/2023 giữa bà Nguyễn Thị T và Công ty TNHH R.

- Công ty TNHH R chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.

[3] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã rút toàn bộ Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T và đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp.

[4] Xét thấy, sự thỏa thuận nêu trên của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội; Viện Kiểm sát đã rút kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[5] Về án phí: Nguyên đơn được miễn án phí sơ thẩm, phúc thẩm. Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn với mức 3%.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 148, Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng các Điều 36, 37, 41, 90 và 122 của Bộ luật Lao động năm 2019; khoản 4 Điều 3, khoản 2 Điều 21 và các Điều 85, 86 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 24/QĐ-VKS-LĐ ngày 11/10/2023 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương;

2. Sửa một phần Bản án sơ thẩm số 07/2023/LĐ-ST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương; công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

2.1. Công ty TNHH R thanh toán cho bà Nguyễn Thị T các khoản bồi thường thiệt hại tính chung là 216.000.000 đồng (không tính cụ thể từng khoản) để chấm dứt toàn bộ tranh chấp về quyền và nghĩa vụ liên quan đến Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ ngày 16/4/2023.

2.2. Bà Nguyễn Thị T cam kết không còn bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến Hợp đồng lao động số No 01042023/HĐLĐ ngày 16/4/2023 giữa bà Nguyễn Thị T và Công ty TNHH R.

2.3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí lao động sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị T được miễn.

- Công ty TNHH R phải chịu 6.480.000 đồng.

4. Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị T được miễn. Công ty TNHH R không phải chịu.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 03/2024/LĐ-PT

Số hiệu:03/2024/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:15/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về