TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 307/2023/LĐ-PT NGÀY 14/03/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 14 tháng 3 năm 2023 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2022/TLPT-LĐ ngày 20 tháng 12 năm 2022, về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, Do Bản án lao động sơ thẩm số 61/2022/LĐ-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm số 320/2023/QĐ-PT ngày 01/02/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1860/2023/QĐ-PT ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguvễn Hoàng H, sinh năm 1988 Địa chỉ: Số D, Ấp A, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Võ Tấn L, sinh năm 1990, Luật sư thuộc Công ty L1, Đoàn luật sư Thành phố H.
Địa chỉ liên hệ: Số B đường X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Công ty TNHH N1 Trụ sở: Tầng 18 và 19 tòa nhà V, số E công trường M, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Công ty Luật TNHH LNT & thành viên Trụ sở: P, Tầng B, Tòa nhà Bitexco F, số B đường H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo Giấy ủy quyền ngày 10/01/2023) Người đại diện theo ủy quyền của Công ty L2: Ông Nguyễn Xuân T, hoặc ông Nguyễn Công P, hoặc bà Nguyễn Thị Ánh H1, hoặc ông Lê Nhất H2 Cùng địa chỉ: P, Tầng B, Tòa nhà Bitexco F, số B đường H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Theo Giấy ủy quyền ngày 10/01/2023) Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lương Trung Vân N, Công ty L2, Đoàn luật sư Thành phố H.
Địa chỉ liên hệ: Phòng 3, Tầng B, Tòa nhà Bitexco F, số B dường H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Cổ phần L3 Trụ sở: số A đường X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Nguyễn Huyền T1.
(Theo giấy ủy quyền ngày 28/02/2022)
2. Công ty TNHH T2 Trụ sở: Số A đường C, Khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hà Thị Thu Đ, sinh năm 1984 (Theo Giấy ủy quyền ngày 25/02/2022) Người kháng cáo: Ông Nguyễn Hoàng H
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 03/7/2020, đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện; các bản trình bày ý kiến, quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Nguyễn Hoàng H trình bày:
Ngày 01/4/2013, nguyên đơn và Công ty TNHH N1 (Công ty) ký kết hợp đồng lao động số 2338/MT/VN/2013 có thời hạn 12 tháng. Ngày 13/3/2014, hai bên ký hợp đồng lao động số 2338/MT/VN/2013, thời hạn hợp đồng là 12 tháng. Tiếp đó, ngày 01/4/2015 hai bên ký kết hợp đồng không xác định thời hạn số 2338/MT/VN/2015-GH2; chức vụ nhân viên lái xe nâng, địa điểm làm việc: Số A đường L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong suốt thời gian làm việc nguyên đơn luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, không vi phạm kỷ luật lao động, không gây bất cứ thiệt hại vật chất cũng như ảnh hưởng nào đến hình ảnh của Công ty.
Ngày 04/5/2020, Công ty mời nguyên đơn đến tham gia buổi họp với nội dung chính là chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 06/6/2020 (sau này được điều chỉnh lại thành ngày 22/6/2020) với lý do Công ty thay đổi cơ cấu.
Ngày 06/5/2020, Công ty ban hành thư Thông báo các khoản thanh toán trợ cấp mất việc và thông báo bổ sung thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế lái xe nâng (trong đó có nguyên đơn) đến ngày 22/6/2020.
Ngày 08/5/2020, ban chấp hành Công đoàn Công ty làm việc với nguyên đơn và toàn bộ tài xế lái xe nâng.
Ngày 15/5/2020, Công ty ban hành thư Thông báo các khoản trợ cấp mất việc làm bổ sung khi chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngày 21/5/2020, Công ty ra thông báo cho ông không đến nhà máy làm việc từ ngày 22/5/2020 đến hết ngày 21/6/2020 và vẫn thanh toán đầy dù tiền lương đến hết ngày 21/6/2020.
Ngày 17/6/2020, Công ty B Quyết định số 11/20/GL/QĐ-HVB về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông kể từ ngày 22/6/2020 với lý do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động 2012.
Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn không đúng quy định của pháp luật vì Công ty không chứng minh được rằng có thay đổi cơ cấu trên thực tế, không công khai phương án trên cho người lao động được biết, không chứng minh được việc không thể đào tạo người lao động để tiếp tục sử dụng và cũng không chứng minh được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H đã nhận được và chấp thuận phương án thay đổi cơ cấu này. Mặt khác, ông cho rằng khi chuyển đổi từ biên chế lái xe nâng sang thuê dịch vụ bên ngoài như ý kiến trình bày của Công ty thì không được xem là nhằm mục đích tổ chức lại lao động. Do đó, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải bồi thường số tiền tổng cộng là 667.600.200 đồng, bao gồm:
- Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012 tính từ ngày 22/6/2020 đến ngày xét xử ngày 24/8/2022 số tiến tổng cộng là: 26 tháng x 8.483.000 đồng = 220.558.000 đồng.
- Bồi thường 04 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012, số tiền là: 04 tháng x 8.483.000 đồng = 33.932.000 đồng.
- Trợ cấp mất việc theo điều 49 Bộ luật Lao động 2012 là: 02 x 8.483.000 đồng = 16.966.000 đồng.
- Bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động 2012, tổng số tiền là 396.144.200 đồng, trong đó: Phụ cấp thêm, 05 năm làm việc là 01 tháng lương: 07 năm /5 x 8.483.000 đồng = 11.876.200 đồng; Trợ cấp bổ sung, hỗ trợ thêm các khoản chênh lệch khi chuyển sang công ty mới: 40.000.000 đồng; Trợ cấp cố định: 344.268.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 của Công ty TNHH N1 chấm dứt Hợp đồng lao động với nguyên đơn và rút lại yêu cầu khởi kiện: Buộc bị đơn phải nhận nguyên đơn trở lại làm việc theo hợp đồng lao động hai bên đã giao kết.
Tại các bản trình bày ý kiến, quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị đơn có bà Nguyễn Thị Anh H1 và ông Lê Nhất H2 là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Thống nhất với trình bày của nguyên đơn về thời gian và hợp đồng lao động được ký kết giữa hai bên.
Ngày 31/3/2020, Công ty quyết định thực hiện việc thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động cho Bộ phận kho hàng nhà máy liên quan đến nhân sự thuộc bộ phận lái xe nâng của Công ty, cụ thể là giải thể toàn bộ bộ phận lái xe nâng tại kho hàng nhà máy do Công ty quyết định chuyển sang sử dụng dịch vụ thuê ngoài cho hoạt động xếp dỡ hàng hóa đang được thực hiện bởi bộ phận lái xe nâng. Việc thay đổi cơ cấu này dẫn đến dôi dư 16 người lao động là toàn bộ nhân viên lái xe nâng thuộc bộ phận kho hàng nhà máy của Công ty.
Ngày 24/4/2020, Công ty đã có buổi họp với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở để thông báo về việc thay đổi cơ cấu. Nội dung của buổi làm việc là xây dựng phương án sử dụng lao động khi thực hiện việc thay đổi cơ cấu. Việc thay đổi cơ cấu dẫn đến dôi dư lao động đối với 16 người lao động lái xe nâng mà Công ty không thể bố trí công việc khác nên buộc phải cho thôi việc những người lao động này. Trong cuộc họp, Công ty đã thể hiện quan điểm là sẽ giải quyết chế độ trợ cấp mất việc làm nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho những người lao động bị ảnh hưởng. Ban chấp hành Công đoàn cơ sở nêu ý kiến rằng phương án giải quyết đối với các trường hợp lao động nghỉ việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động là tuân thủ quy định pháp luật hiện hành và phù hợp với chính sách của Công ty. Do đó, cũng vào ngày 24/4/2020, Công ty và Ban chấp hành Công đoàn cơ sở đã ký thông qua phương án sử dụng lao động, trong đó nêu rõ việc Công ty không thể bố trí công việc cho 16 nhân viên lái xe nâng và dùng kinh phí là 1.825.113.500 đồng để giải quyết chế độ cho những người lao động bị mất việc.
Cùng ngày 24/4/2020, Công ty đã phát hành Thông báo số HVN/040520-MD01 về phương án sử dụng lao động đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội Thành phố H, có xác nhận đã nhận ngày 04/05/2020; trong đó có nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với 16 nhân viên làm việc tại vị trí lái xe nâng kể từ ngày 06/6/2020 dưới hình thức cho thôi việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động.
Ngày 04/5/2020, Công ty đã tổ chức buổi họp với toàn bộ nhân viên lái xe nâng, trong đó có nguyên đơn, để thông báo về việc thay đổi cơ cấu và chấm dứt hợp đồng lao động có hiệu lực từ ngày 06/6/2020. Đồng thời thông báo về việc giải quyết chế độ mất việc làm cho những người lao động này theo đúng quy định pháp luật. Trong quá trình làm việc có 10 người lao động đã ký thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngày 06/5/2020, Công ty đã gửi cho nguyên đơn Thông báo các khoản thanh toán trợ cấp mất việc làm do thay đổi cơ cấu mà Công ty sẽ thực hiện chi trả và theo nguyện vọng của các nhân viên tài xế xe nâng. Công ty sẽ kéo dài thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế xe nâng do việc thay đổi cơ cấu đến ngày 22/6/2020 (thay vì ngày 06/6/2020). Ngày 15/5/2020, để hỗ trợ thêm tài chính cho người lao động bị mất việc do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động, Công ty đã gửi thông báo trả thêm khoản trợ cấp bổ sung tính theo thâm niên làm việc cho những nhân viên tài xế xe nâng bị chấm dứt hợp đồng lao động nếu những người này xác nhận đồng ý đối với khoản trợ cấp bổ sung này. Trong đó, nguyên đơn sẽ được Công ty hỗ trợ thêm về quyền lợi, gồm: Trả khoản tiền theo thâm niên làm việc là 40.000.000 đồng và trả tiền thưởng cuối năm tính theo thời gian làm việc từ ngày 01/01/2020 đến ngày 21/6/2020 tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, nguyên đơn không đồng ý nhận khoản tiền hỗ trợ thêm này.
Ngày 01/6/2020, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H có Văn bản số 13633/SLĐTBXH-LĐ gửi cho Công ty H3 về việc cho nhiều người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu và Công ty đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật. Trên thực tế, chế độ trợ cấp mất việc làm cho người lao động trong trường hợp này còn được giải quyết cao hơn mức luật định, bảo đảm quyền lợi tối đa cho người lao động trong khả năng của công ty.
Ngày 17/6/2020, Công ty đã gửi Thông báo số HVN/220620-MD01 đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội Thành phố H (được xác nhận đã nhận văn bản ngày 22/6/2020) có nội dung thay đổi theo hướng có lợi hơn cho người lao động, cụ thể như sau: Thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế xe nâng được kéo dài đến ngày 22/6/2020 thay vì chấm dứt sớm hơn vào ngày 06/6/2020; Công ty đồng ý trả thêm khoản tiền cho người lao động bị mất việc tính theo thâm niên làm việc như sau: Hỗ trợ 110.000.000 đồng/nhân viên làm việc trên 20 năm, hỗ trợ 80.000.000 đồng/nhân viên làm việc dưới 20 năm nhưng trên 10 năm, hỗ trợ 40.000.000 đồng/nhân viên làm việc dưới 10 năm cho những người lao động có xác nhận đồng ý với mức hỗ trợ bổ sung khi chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty.
Ngày 17/6/2020, Công ty B Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 12/20/GL/QĐ-HVB với nguyên đơn từ ngày 22/6/2020 là đúng quy định của pháp luật. Khi chấm dứt hợp đồng lao động, Công ty đã thanh toán đầy đủ các quyền lợi cho nguyên đơn bao gồm: 1. Tiền lương, phụ cấp, tiền thanh toán cho những ngày phép chưa nghỉ tính đến ngày 21/6/2020 và các khoản tiền khác: 8.596.579 đồng: 2. Tiền lương tháng 13 tương ứng trong thời gian từ ngày 01/01/2020 đến hết ngày 21/6/2020: 4.020.700 đồng; 3. Tiền trợ cấp mất việc làm tương đương 01 tháng cho mỗi năm làm việc tính từ ngày 01/4/2013 đến ngày 21/06/2020: 16.966.000 đồng, 4. tiền Phụ cấp thêm, mỗi năm (5) năm làm việc là 01 tháng lương tính từ ngày 01/4/2013 đến ngày 21/6/2020 số tiền là 11.876.200 đồng và tiền lương trả thêm cho 02 tháng báo trước là 16.966.000 đồng; 5. Tiền thưởng hoàn thành công việc năm 2020 theo mức thưởng level 3 (tính theo tỷ lệ thời gian làm việc từ ngày 01/01/2020 đến ngày 21/6/2020) dựa trên kết quả kinh doanh của Công ty được công bố: 12.029.172 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn thực nhận sau khấu trừ thuế thu nhập cá nhân, tiền bảo hiểm xã hội nộp cho cơ quan nhà nước là 64.641.355 đồng.
Bị đơn đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và giải quyết đầy đủ quyền lợi cho ông H2 khi chấm dứt hợp đồng lao động với ông H2. Do đó, bị đơn không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại bản ý kiến đề ngày 03/3/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Công ty Cổ phần L4 trình bày:
Công ty Cổ phần L4 (gọi tắt là Công ty L4) và Công ty N1 có ký Hợp đồng dịch vụ số HNK 194904-HVB ngày 16/6/2020, bản bổ sung điều chỉnh và các phụ lục kèm theo. Theo đó, Công ty T4 đã cung cấp dịch vụ bốc xếp hàng hóa (luân chuyển, xếp dỡ hàng hóa là thành phẩm, vỏ chai, nguyên vật liệu trong khu vực kho và đến địa điểm cần luân chuyển đến) theo yêu cầu của bị đơn tại kho hàng có địa chỉ: Số A đường T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Tùy vào từng thời điểm (mùa cao điểm hay mùa thấp điểm) mà Công ty sẽ thông báo để Công ty L4 & A điều động nhân sự của Công ty L4 một cách phù hợp để đảm bảo dịch vụ được thực hiện đúng tiến độ. Căn cứ khối lượng công việc được nghiệm thu thực tế hàng tháng thì bị đơn sẽ xác nhận phí dịch vụ và thanh toán cho Công ty L4. Để thực hiện hợp đồng Công ty L4 đã thỏa thuận với Công ty N1 để Công ty T4 sử dụng các thiết bị chuyển và xếp dỡ hàng hóa. Do công việc diễn ra hàng ngày và để thuận tiện cho các bên nên các xe nâng hàng mà Công ty L4 thuê để sử dụng cho việc cung cấp dịch vụ cho Công ty N1 được gửi lại tại kho hàng của Công ty N1. Tại kho hàng Quận A, ngoài Công ty L4 còn có Công ty TNHH T2 cũng thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa cho Công ty N1 tại đây, ngoài ra không còn đơn vị dịch vụ nào khác và cũng không có người lao động nào của Công ty N1 thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa tại đây. Công ty T4 không có ý kiến hay yêu cầu gì khác liên quan đến vụ án và đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
Tại bản ý kiến đề ngày 02/3/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Công ty TNHH T2 trình bày:
Công ty TNHH T2 (gọi tắt là Công ty T2) và Công ty N1 có ký Hợp đồng dịch vụ số HNK 206346 ngày 01/5/2021. Theo đó, Công ty T2 cung cấp dịch vụ bốc xếp hàng hóa có sử dụng phương tiện hỗ trợ tại các địa điểm có chỉ định của Công ty N1, phạm vi công việc là luân chuyển, xếp dỡ hàng hóa là thành phẩm, vỏ chai, nguyên vật liệu trong khu vực kho và đến địa điểm cần luân chuyển theo yêu cầu của Công ty N1, trong đó bao gồm kho hàng có liên quan đến vụ án tại địa chỉ: số A, đường L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Cách thức cung cấp dịch vụ giữa hai bên như sau: Công ty N1 thông báo cho Công ty T2 biết số lượng hàng hóa cần bốc xếp tùy từng thời điểm, sau đó Công ty T2 sẽ tính toán và lên kế hoạch thực hiện điều động nhân sự, phương tiện phù hợp để thực hiện công việc đúng tiến độ và yêu cầu sử dụng dịch vụ của Công ty N1. Nhân sự được điều động cung cấp dịch vụ cho Công ty N1 là người lao động của Công ty T2, còn phương tiện làm việc thì Công ty T2 thuê xe nâng hàng của Công ty TNHH H4 (Việt Nam) để giao cho nhân sự sử dụng để thực hiện dịch vụ bốc dỡ hàng hóa tại địa điểm của Công ty N1, xe nâng cũng được gửi lại tại nơi thực hiện công việc sau mỗi ngày làm việc. Hàng tháng, Công ty T2 và Công ty N1 sẽ đối chiếu khối lượng công việc được thực hiện trong phạm vi dịch vụ đã thỏa thuận để tính chi phí dịch vụ. Trong quá trình cung cấp dịch vụ tại kho hàng Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh ngoài Công ty T2 còn có Công ty Cổ phần L4 cũng thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa cho Công ty N1 tại đây, ngoài ra không có người lao động nào của Công ty N1 thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa tại đây. Công ty T2 không có ý kiến hay yêu cầu gì khác liên quan đến vụ án và đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 61/2022/LĐ-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 10 Điều 36, Điều 42, Điều 44, Điều 46, Điều 47, Điều 49 của Bộ luật Lao động năm 2012,
- Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động;
- Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/10/2018 của Chính phủ;
- Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/16/2015 của Bộ L5 hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 về Chính phủ;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thưởng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện sau của ông Nguyễn Hoàng H về việc:
- Yêu cầu hủy Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/06/2020 của Công ty TNHH N1 chấm dứt Hợp đồng lao động với ông Nguyễn Hoàng H.
- Yêu cầu Công ty TNHH N1 bồi thường số tiền tổng cộng là 667.600.200 đồng, bao gồm: Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc cho công ty theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012, số tiền là: 26 tháng x 8.483.000 đồng = 220.558.000 đồng: Bồi thường 04 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012, số tiền là: 04 tháng x 8.483.000 đồng = 33.932.000 đồng; Trợ cấp mất việc theo điều 49 Bộ luật Lao động 2012 là: 02 x 8.483.000 đồng = 16.966.000 đồng; Bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động 2012, tổng số tiền là 396.144.200 đồng, trong đó: Phụ cấp thêm, 05 năm làm việc là 01 tháng lương: 07 năm/5 x 8.483.000 đồng = 11.876.200 đồng, Trợ cấp bổ sung, hỗ trợ thêm các khoản chênh lệch khi chuyển sang công ty mới: 40.000.000 đồng; Trợ cấp cố định: 344.268.000 đồng.
2. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng H về việc yêu cầu Công ty TNHH N1 phải nhận ông Nguyễn Hoàng H trở lại làm việc theo hợp đồng lao động các bên đã giao kết.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động: Nguyên đơn được miễn nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động. Bị đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.
Ngày 10/9/2022, nguyên đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 1, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Hai bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án như sau: Nguyên đơn đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động theo Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/06/2020 của Công ty TNHH N1 chấm dứt Hợp đồng lao động, bị đơn đồng ý hỗ trợ cho nguyên đơn số tiền 40.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đảm bảo cho các đương sự có các quyền và nghĩa vụ theo quy định; gửi các Quyết định, Thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự đầy đủ, đúng thời hạn. Hội đồng xét xử đúng thành phần, phiên tòa diễn ra theo đúng trình tự và quy định của pháp luật.
Về nội dung: Tại phiên tòa hai bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, không trái pháp luật cần được ghi nhận. Đề nghị sửa án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn được làm trong thời hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên được chấp nhận về hình thức.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn nêu Công ty không chứng minh được có thay đổi cơ cấu trên thực tế, không công khai phương án trên cho người lao động được biết, không chứng minh được việc không thể đào tạo người lao động để tiếp tục sử dụng và cũng không chứng minh được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H đã nhận được và chấp thuận phương án thay đổi cơ cấu này. Nên Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020, Công ty ban hành về việc chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 22/6/2020 với lý do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động 2012, là trái pháp luật, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật. Do đó, vấn đề Hội đồng xét xử đặt ra là bị đơn chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn đã thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật lao động làm căn cứ giải quyết yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
[3] Xét thấy ngày 31/3/2020, Công ty thực hiện việc thay đổi cơ cấu tổ chức, giải thể bộ phận lái xe nâng tại kho hàng nhà máy và chuyển sang sử dụng dịch vụ thuê ngoài cho hoạt động xếp dỡ hàng hóa đang được thực hiện bởi bộ phận lái xe nâng. Ngày 24/4/2020, Công ty ban hành Thông báo số HVN/040520-MD01 về phương án sử dụng lao động - chuyển đổi sang dịch vụ thuê ngoài cho hoạt động xếp dỡ hàng hóa; đồng thời Công ty đã có cuộc họp với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở thông báo về việc thay đổi cơ cấu, xây dựng phương án sử dụng lao động. Đến ngày 04/5/2020, Công ty đã tổ chức cuộc họp với toàn bộ nhân viên lái xe nâng, trong đó có nguyên đơn để thông báo về việc thay đổi cơ cấu, chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 06/6/2020 và thông báo về việc giải quyết chế độ mất việc làm cho những người lao động. Ngày 06/5/2020, Công ty đã gửi Thông báo các khoản thanh toán trợ cấp mất việc làm do thay đổi cơ cấu mà Công ty sẽ thực hiện chi trả nguyên đơn và kéo dài thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế xe nâng do việc thay đổi cơ cấu đến ngày 22/6/2020.
[4] Ngày 24/4/2020, Công ty đã gửi Thông báo số HVN/040520-MD01 về phương án sử dụng lao động có nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với 16 nhân viên làm việc tại vị trí lái xe nâng kể từ ngày 06/6/2020 dưới hình thức cho thôi việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động, và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H đã xác nhận tại Công văn số 13633/SLĐTBXH-LĐ ngày 01/6/2020 và Công văn số 15168/SLĐTBXH-LĐ ngày 12/5/2021. Như vậy, có cơ sở xác định Công ty đã thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh trước 30 ngày về việc chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động.
[5] Căn cứ Hợp đồng dịch vụ số HNK 194904-HVB ngày 16/6/2020, bản bổ sung điều chỉnh và các phụ lục kèm theo giữa Công ty Cổ phần L3 và Công ty; Hợp đồng dịch vụ số HNK 206346 ngày 01/5/2021 giữa Công ty TNHH T2 và Công ty có cơ sở xác định từ tháng 6/2020 đến khi xét xử sơ thẩm, Công ty đã thuê hai Công ty trên thực hiện dịch vụ bốc xếp hàng hóa (luân chuyển, xếp dỡ hàng hóa là thành phẩm, vỏ chai, nguyên vật liệu trong khu vực kho và đến địa điểm cần luân chuyển đến) theo yêu cầu của Công ty tại kho hàng có địa chỉ tại A L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, không ký hợp đồng lao động thực hiện công việc lái xe nâng với người lao động khác.
[6] Từ những căn cứ nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đồng ý chấm dứt Hợp đồng lao động theo Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 của Công ty ban hành về việc chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 22/6/2020 với lý do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động; bị đơn tự nguyện hỗ trợ thêm số tiền 40.000.000 đồng ngoài các khoản nguyên đơn đã nhận. Hội đồng xét thấy việc tự nguyện thỏa thuận của hai bên đương sự là tự nguyện, không trái pháp luật, không là ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người khác, cần được chấp nhận như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[7] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và bị đơn đề nghị chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận của đương sự, sửa án sơ thẩm do các đương sự tự nguyện thỏa thuận.
[8] Án phí lao động nguyên đơn, bị đơn không phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Áp dụng Luật thi hành án dân sự Tuyên xử: Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự, sửa một phần bản án lao động sơ thẩm số 61/2022/LĐ-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự:
Ông Nguyễn Hoàng H đồng ý chấm dứt Hợp đồng lao động với Công ty TNHH N2 theo Quyết định số 12/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020, Công ty ban hành về việc chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 22/6/2020 với lý do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động.
Công ty TNHH N2 tự nguyện hỗ trợ cho ông Nguyễn Hoàng H số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) ngoài các khoản nguyên đơn đã nhận.
2. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng H về việc yêu cầu Công ty TNHH N1 phải nhận ông Nguyễn Hoàng H trở lại làm việc theo hợp đồng lao động các bên đã giao kết.
3. Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng H được miễn nộp án phí lao động sơ thẩm và phúc thẩm. Bị đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 307/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 307/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 14/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về