Bản án về tranh chấp đòi lại và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất số 360/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 360/2023/DS-PT NGÀY 20/06/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI VÀ YÊU CẦU CÔNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai, vụ án thụ lý số: 123/2022/TLPT-DS ngày 13 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi lại và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2022/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 958/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 4 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 61/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 5 năm 2023 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1230/2023/QĐ-PT ngày 24 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N;

Địa chỉ: Đường N2, Khu Công nghiệp X, xã X1, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

1. Ông Lê Bá T, sinh năm 1989 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 28/4/2022) (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng);

Địa chỉ: Số nhà 218, đường P, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

2. Ông Trần Chí N1, sinh năm 1994 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 28/4/2022) (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh);

Địa chỉ: Số nhà 37, đường T1, phường T2, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Đỗ Thị H- Luật sư của Công ty Luật Hợp danh Đ; Địa chỉ trụ sở: Số 37, đường T1, phường T2, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh).

- Bị đơn:

1. Bà Trần Mỹ L, sinh năm 1953 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 152, đường L1, Khóm 4, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bà Lâm Phạm Tú T3, sinh năm 1978 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 187, đường N2, Khóm 2, Phường 1, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn bà L và bà T3: Ông Dương Việt T4, sinh năm 1954 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 26/5/2017 và 13/4/2018) (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng);

Địa chỉ: Số nhà 152, đường L1, Khóm 4, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị đơn: Ông Nguyễn Văn X2- Luật sư của Văn phòng luật sư V, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ: Số 217, ấp 2, thị trấn P1, huyện T5, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân huyện T6, tỉnh Sóc Trăng;

Địa chỉ: Ấp Đ1, thị trấn T6, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T6: Bà Huỳnh Minh N3 (Theo Văn bản ủy quyền số 827/UBND-VP ngày 7/7/2022) (có đơn xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp Đ1, thị trấn T6, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng.

2. Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng;

Địa chỉ: Ấp 4, thị trấn L2, huyện L2, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện L2: Ông Huỳnh Tấn T3- Chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L2 (Theo Giấy ủy quyền ngày 02/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng) (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp 4, thị trấn L2, huyện L2, tỉnh Sóc Trăng.

3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn K(vắng mặt);

Địa chỉ: Số 592, Quốc lộ 1, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Bá T, sinh năm 1989 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 21/03/2022) (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng);

Địa chỉ: Số nhà 218, đường P, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

4. Ông Dương Việt T4, sinh năm 1954 (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng);

Địa chỉ: Số nhà 152, đường L1, Khóm 4, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

5. Ông Đỗ Ngọc T7, sinh năm 1973 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 187, đường N2, Khóm 2, Phường 1, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của ông T7: Ông Dương Việt T4, sinh năm 1954 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 26/5/2017) (có mặt tại điểm cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng);

Địa chỉ: Số nhà 152, đường L1, Khóm 4, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

6. Ông Nguyễn Văn X3, sinh năm 1963 (vắng mặt);

7. Bà Hồ Thị X4, sinh năm 1965 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Số nhà 199, ấp P2, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà X4: Ông Nguyễn Văn X3, sinh năm 1963 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 16/4/2018) (vắng mặt);

Địa chỉ: Số nhà 199, ấp P2, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng.

- Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

- Người kháng cáo: Bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N (sau đây viết tắt là Công ty N) trình bày:

Nguyên toàn bộ diện tích đất 29.099m2 thuộc thửa 308, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng là của bà Hồ Thị X4- Vợ của ông Nguyễn Văn X3, đã được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện L2 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) số Đ.330731 và diện tích 24.042m2 thuộc thửa 198, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng là của ông Nguyễn Văn X3, đã được UBND huyện L2 cấp GCNQSDĐ số Đ.330731.

Tuy nhiên, trong quá trình mua thức ăn tôm của Công ty N (Lúc này Giám đốc là ông Đỗ Ngọc T7), ông Nguyễn Văn X3 còn nợ Công ty N số tiền 1.560.908.941 đồng và tiền lãi đến ngày 03/12/2005 là 235.875.507 đồng (Bản đối chiếu công nợ ngày 17/12/2005).

Vì vậy, vào ngày 03/12/2005, giữa ông X3 và Công ty N đã lập biên bản đối chiếu công nợ và thống nhất sử dụng 03 lô đất, trong đó có lô đất 29.099m2 và lô đất 24.042m2 nêu trên để phát mãi, cấn trừ nợ. Theo đó, ông X3đã giao 02 bản chính GCNQSDĐ và các giấy tờ pháp lý liên quan đến 02 thửa đất nêu trên cho Công ty N tiến hành các thủ tục sang nhượng, để Công ty N đứng tên GCNQSDĐ với diện tích 29.099m2 thuộc thửa 308 và diện tích 24.042m2 thuộc thửa 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, ông X3cũng đã bàn giao mặt bằng cho Công ty N quản lý, sử dụng nuôi trồng thủy sản cho đến nay. Gần đây trong quá trình cho một số nhân viên Công ty N nghỉ việc, bàn giao giấy tờ phát hiện GCNQSDĐ đối với 02 thửa đất nêu trên không đứng tên Công ty N mà đứng tên cá nhân bà Trần Mỹ L - là vợ của ông Dương Việt T4 (Trước đây là Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH K - Công ty N là công ty con) và bà Lâm Phạm Tú T3 - là vợ của ông Đỗ Ngọc T7 (Trước đây là Giám đốc của Công ty N).

Sau khi phát hiện ra vụ việc nêu trên, Công ty N đã liên hệ với bà L và bà T3 để yêu cầu giao lại quyền sử dụng 02 thửa đất nêu trên cho Công ty N đứng tên. Tuy nhiên, bà Lvà bà T3 không những không đồng ý mà còn lợi dụng việc đứng tên trên GCNQSDĐ cho người tới gây rối, hủy hoạt tài sản và yêu cầu Công ty phải giao đất. Hiện nay Công ty N vẫn lưu giữ 02 bản chính GCNQSDĐ nêu trên. Nhận thấy, 02 quyền sử dụng đất nêu trên là tài sản thuộc sở hữu của Công ty N, việc bà L và bà T3 đứng tên trên GCNQSDĐ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Lê Bá T là người đại diện theo ủy quyền của Công ty N cho rằng giấy đề nghị chi số tiền 1.345.000.000 đồng là thủ tục chi ra để mua các lô đất của ông X3 nhằm mục đích cấn trừ nợ cho Công ty N chứ thực tế không có chi tiền mặt. Ngoài ra, tại bản đối chiếu công nợ đề ngày 17/12/2005 ghi trả tiền mặt, nhưng thực chất ông X3 không có đưa tiền mặt cho Công ty mà giao đất để cấn trừ nợ. Đồng thời, ông T cho rằng khoản tiền giao đất cấn trừ nợ nêu trên được hạch toán vào báo cáo tài chính năm 2005 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn K(sau đây viết tắt là Công ty K), tại mục tài khoản số 230 phí xây dựng cơ bản dở dang. Bởi, Công ty N là Công ty chỉ chuyên nuôi trồng thủy sản và chế biến thức ăn thủy sản, do đó khoản tiền mua đất nêu trên đã được hạch toán vào chi phí của công ty mẹ và đến thời điểm hiện nay ông X3 đã trả xong số tiền còn lại cho Công ty N theo Bản án của Tòa án nhân dân huyện T6 xét xử năm 2015. Vì vậy, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xem xét, giải quyết các vấn đề sau đây:

1. Buộc bà Trần Mỹ L giao trả phần đất có diện tích 29.099m2, thuộc thửa số 308 và buộc bà Lâm Phạm Tú T3 giao trả phần đất có diện tích 24.042m2, thuộc thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty N.

2. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 29.099m2, thuộc thửa số 308 và diện tích 24.042m2, thuộc thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty N.

3. Hủy GCNQSDĐ số AĐ 930575 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và hủy GCNQSDĐ số AĐ 930574 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Lâm Phạm Tú T3.

Công ty N không đồng ý đối với yêu cầu phản tố của bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 về việc yêu cầu Công ty N trả lại 02 GCNQSDĐ số AĐ 930575 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và GCNQSDĐ số AĐ 930574 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Lâm Phạm Tú T3.

Tại Đơn phản tố của các bị đơn bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 trình bày:

Về nguồn gốc thửa đất 198 và 308, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng là của vợ chồng bà Hồ Thị X4 và ông Nguyễn Văn X3. Trước đây, ông X3 có mua thức ăn tôm của Công ty N đến ngày 03/12/2005 thì ông X3còn nợ Công ty N 1.796.784.448 đồng (đã bao gồm tiền nợ gốc, tiền cho vay và tiền lãi), do ông X3 không có khả năng thanh toán nên giữa ông X3 và Công ty N thỏa thuận và đi đến thống nhất là ông X3 giao cho Công ty N phát mãi tài sản để lấy tiền mặt trừ vào số nợ mà ông X3 đã nợ. Các tài sản bán phát mãi của ông X3 là 03 thửa đất, trong đó có thửa 198 và 308, cùng tờ bản đồ số 10 nêu trên; thông qua trung gian bà T3 mới biết và nhận sang nhượng lại thửa đất 198, tờ bản đồ số 10, có diện tích là 24.042m2 với giá là 330.000.000 đồng và bà Lnhận sang nhượng thửa đất 308, tờ bản đồ số 10, có diện tích 29.099m2 với giá 390.000.000 đồng; các bà và vợ chồng bà X4, ông X3 đến UBND xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 20/12/2005; các bên đã giao nhận đất và giao nhận tiền đầy đủ một lần trước đó, đến ngày 03/5/2006 các bà đã được cấp GCNQSDĐ và các bà đã sử dụng phần đất sang nhượng từ đó cho đến nay không có tranh chấp. Còn việc Công ty N kiện đòi đất, công nhận đất và yêu cầu hủy GCNQSDĐ của các bà, các bà không đồng ý. Bởi vì, việc nợ nần giữa Công ty N và ông X3 không liên quan đến các bà.

Sau khi nhận sang nhượng và được cấp GCNQSDĐ, bà L có giao GCNQSDĐ cho chồng bà là ông Dương Việt T4, lúc đó ông T4 còn công tác tại Công ty K và bà T3 có giao GCNQSDĐ cho chồng bà là ông Đỗ Ngọc T7, lúc đó ông T7 còn công tác tại Công ty N. Khi nội bộ trong thân tộc xảy ra tranh chấp liên quan đến Công ty K, khi đó ông Đỗ Ngọc Q mới tiến hành ngăn chặn không cho ông T4 và ông T7 vào nơi làm việc cũng không cho nhận lại các tài liệu, giấy tờ liên quan đến cá nhân ông T4 và ông T7, trong đó có cả GCNQSDĐ số AĐ 930575, thửa 308 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Lvà GCNQSDĐ số AĐ 930574, thửa 198 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà T3.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Dương Việt T4 là người đại diện theo ủy quyền của bà L và bà T3 cho rằng ông X3 và bà X4 chuyển nhượng các phần đất tranh chấp cho bà L và bà T3 là hoàn toàn hợp pháp và các bà đã được cấp GCNQSDĐ, sau khi sang nhượng các bà đã nhận đất và quản lý, sử dụng và cho ông L5 thuê đất từ năm 2007 - 2010 (Không có làm hợp đồng thuê), sau đó cho bà Hồ Thị X4 thuê đất các năm từ đầu 2012 - đến cuối 2014, thuê tiếp từ 2017 - 2022 (Có làm hợp đồng thuê và cải tạo lại các ao vào tháng 12 năm 2017). Do đó, đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty N trả lại 02 GCNQSDĐ vừa nêu trên cho bà L và bà T3.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương Việt T4, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Đỗ Ngọc T7 trình bày:

Việc Công ty N kiện đòi đất, công nhận đất và yêu cầu hủy GCNQSDĐ của bà L và bà T3, ông không đồng ý, vì các phần đất này bà L và bà T3 nhận chuyển nhượng hợp pháp từ ông X3 và bà X4.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Dương Việt T4 là người đại diện theo ủy quyền của ông T7 cho rằng việc xác định giá trị đất và tài sản trên đất của ông X3, bà X4 và bà T8 vào ngày 03/12/2005 là đưa ra giải pháp để thu hồi nợ bằng cách giới thiệu cho ông X3 bán đất lấy tiền trả nợ cho Công ty N và đã giới thiệu cho bà L, bà T3 sang nhượng của ông X3, bà X4, còn bà L4 nhận sang nhượng của bà T8; đến ngày 17/12/2005 thì ông X3 trả tiền mặt cho Công ty N và được giảm lãi nên ông X3 còn nợ lại 400.000.000 đồng, số tiền ông X3 còn nợ lại không lớn nên Công ty N đã trả lại 03 GCNQSDĐ cho ông X3(03 giấy chứng nhận này là thế chấp để mua thức ăn). Công ty N không có nhận chuyển nhượng các thửa đất trên, nên không có làm hợp đồng chuyển nhượng và cũng không có lập thủ tục chi tiền mặt thông qua bộ phận kế toán tài chính của Công ty. Còn giấy ghi chi 1.345.000.000 đồng thì ông T7 dự định cho bà T3 ứng cho cả bà L4, bà L để trả trước cho việc các bà nhận sang nhượng đất, nhưng sau đó không có ứng vì ai mua thì người đó tự trả tiền, nên giấy này không có sử dụng, chỉ là giấy nháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do ông Tđại diện Công ty K trình bày: Công ty N là Công ty con của Công ty K, chuyên nuôi trồng thủy sản và chế biến thức ăn. Trước đây ông Nguyễn Văn X3 còn nợ Công ty N số tiền nợ gốc 1.560.908.941 đồng và tiền lãi là 235.875.507 đồng. Do không có tiền trả nợ nên đến ngày 03/12/2005, ông X3 đã chủ động đề nghị giao 02 lô đất (bao gồm:lô đất ngoài đê đứng tên bà Nguyễn T8, còn lô đất trong đê đứng tên ông Nguyễn Văn X3 và bà Hồ Thị X4) thuộc tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty N để phát mãi thu hồi nợ.

Sau khi thống nhất việc giao đất cấn trừ nợ, Công ty đã cho vợ chồng ông Đỗ Ngọc Q, bà Nguyễn Thị Mỹ L4(chủ sở hữu Công ty) đại diện Công ty đứng tên đối với phần đất của bà T8, nên ông X3mới lập tờ sang nhượng quyền sử dụng đất cho ông Q, bà L4. Riêng đối với phần đất của ông X3và bà X4 thì sẽ thực hiện các thủ tục sang tên cho Công ty. Sau đó, Công ty đã bàn giao toàn bộ bản chính GCNQSDĐ cho ông X3để thực hiện thủ tục sang tên cho ông Q, bà L4và Công ty, đồng thời ông Đỗ Ngọc T7 (thời đó là Giám đốc Công ty N) chịu trách nhiệm giám sát, quản lý việc sang tên này.

Việc ông X3và đại diện các bị đơn cho rằng ông X3bán đất cho các cá nhân bao gồm ông Đỗ Ngọc Q, bà Nguyễn Thị Mỹ Linh, bà Đỗ Thị Ngọc Sương, bà Lâm Phạm Tú T3 và bà Trần Mỹ L, sau đó dùng số tiền này để trả nợ cho Công ty N là không có căn cứ, bởi các lẽ:

- Ông Q, bà L4đã xác nhận ông, bà chỉ là những người được Công ty chỉ định đứng tên đối với một phần lô đất của bà T8 (do ông X 3đại diện giao dịch), hoàn toàn không chi tiền cá nhân để mua đất. Do đó, ông X3 không thể nào có đủ tiền mặt để trả toàn bộ nợ cho Công ty N.

- Ông X3 đại diện cho bà T8 ký các Tờ sang nhượng một phần lô đất ngoài đê cho ông Q, bà L4 theo chỉ định của Công ty đã khẳng định rõ ông X3đang thực hiện theo thỏa thuận theo Biên bản ngày 03/12/2005 về việc giao đất cấn trừ nợ cho Công ty. Riêng lô đất trong đê đứng tên ông X3 và bà X4 thì ông X3 cũng đã bàn giao cho Công ty theo đúng thỏa thuận, tuy nhiên ông Đỗ Ngọc T7 đã lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty, bằng cách sang tên các thửa đất này cho người thân của mình là bà Lâm Phạm Tú T3 (vợ) và bà Trần Mỹ L (chị dâu).

- Công ty N không thừa nhận các Tờ sang nhượng đất giữa ông X3, bà S1, bà T3, bà L vì đây đều là những bản photo, không có bản chính đối chiếu nên không có giá trị chứng minh. Ông T7 và ông X3 đã dùng thủ đoạn gian dối để làm giả các Tờ sang nhượng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của Công ty vì Công ty chưa bao giờ cho phép bà S1, bà T3, bà L được quyền đứng tên tài sản là quyền sử dụng đất của Công ty.

Nhận thấy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định giữa Công ty N và ông X3 có tồn tại việc bàn giao đất cấn trừ nợ và đã thực hiện xong việc cấn trừ nợ, bàn giao đất trên thực tế. Công ty N là bên quản lý sử dụng đất từ khi nhận bàn giao đất của ông X3 từ năm 2005 cho đến hiện tại. Do đó, Công ty N mới là chủ sở hữu thực sự của hai thửa đất đang tranh chấp với bà T3, bà L.

Vì vậy, Công ty K đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty N, cộng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty N và hủy các GCNQSDĐ đã cấp cho bà T3, bà L và bác toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

Tại các biên bản lấy khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn X3 trình bày:

Vào ngày 03/12/2005, Công ty N có mời ông lên Công ty để xác định 02 lô đất trong đê và ngoài đê, gồm 03 thửa đất, trong đó có thửa đất 198, diện tích 24.042m2 và thửa đất 308, diện tích 29.099m2 để bán phát mãi trả nợ cho Công ty (đây chỉ là gợi ý ban đầu), nhưng ông chưa đồng ý để về bàn lại với gia đình và Công ty cũng không có nhu cầu mua và sau đó Công ty có giới thiệu để vợ chồng ông chuyển nhượng cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3. Sau đó, ông trực tiếp chuyển nhượng đất cho bà L và bà T3 (không có bán tài sản trên đất) và ông đã nhận đủ tiền sang nhượng, ông đã trả bằng tiền mặt cho Công ty số tiền 1.345.000.000 đồng (việc giao 03 GCNQSDĐ do ông, vợ ông và em gái ông đứng tên Nguyễn T8 là thế chấp cho Công ty để mua chịu thức ăn nuôi tôm). Ông còn nợ lại Công ty số tiền 400.000.000 đồng và ông đã ủi đất cải tạo ao cho Công ty ở khu A đập đá, ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6 để trừ nợ với số tiền 200.000.000 đồng, còn nợ lại 200.000.000 đồng; năm 2015 ông Đỗ Ngọc Q kiện ông ra Tòa án nhân dân huyện T6, chứng minh Công ty thừa nhận phần nợ cuối cùng mà ông nợ và trong vụ kiện thì không nói gì đến vụ đất chuyển nhượng cho bà Lvà bà T3. Vào ngày 15/9/2016 ông có xác nhận đã giao đất cho Công ty N từ tháng 12 năm 2005 là vì lúc đó ông Q yêu cầu ông xác nhận như thế để xóa nợ cho ông đối với số nợ còn lại khoảng 114.000.000 đồng (Hai bên có làm văn bản thỏa thuận), nhưng ký xong thì lật lộng không thực hiện xóa nợ cho ông như thỏa thuận; thực chất ông đã sang nhượng và giao đất cho bà L và bà T3 từ đầu năm 2006. Sau này ông không hợp tác với ông Q nên cho xã hội đen dùng thuốc sâu thảy xuống các ao nuôi làm chết hết tôm sú và tôm thẻ và lấy các tài sản của gia đình ông. Vào ngày 04/5/2006 ông có ký nhận của Công ty N số tiền 35.000.000 đồng là để làm quyền sử dụng đất cho những thửa đất khác ở khu B chứ không phải các phần đất đang tranh chấp. Hiện nay vợ chồng ông vẫn đang quản lý, sử dụng 02 thửa đất đang tranh chấp nêu trên.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/7/2022 thì ông X3 khai: Tất cả các văn bản có trong hồ sơ vụ án mà Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng do ông cung cấp thì ông xác định không có thay đổi nội dung, nay ông có bổ sung một số vấn đề sau:

+ Tại biên xác nhận ngày 15/9/2016, nội dung của bản xác nhận này do Công ty ghi và ông có ký tên. Tuy nhiên nội dung xác nhận chưa chính xác vụ việc quá lâu nên ông không nhớ rõ. Do đó, tại biên bản làm việc ngày 13/4/2018 thì ông thay đổi lời khai là đúng sự thật của vụ án.

+ Hai thửa đất số 308 và số 198 thì do ông và vợ ông là bà X4 đứng tên.

Đối với thửa 198 thì ông sang nhương cho bà T3 giá 330.000.000 đồng và thửa 308 thì sang nhượng cho bà L giá 390.000.000 đồng và hai bên có hợp đồng chuyển nhượng và hiện nay bà T3 - bà L đứng tên quyền sử dụng đất. Lý do sang nhượng cho hai bà này cũng bằng giá với Công ty, nhưng các bà để lại cho ông các thiết bị như mô tưa, quạt, dây điện,… giá trên 100.000.000 đồng, còn Công ty sang nhượng không có người coi và không có để lại cho ông mô tưa, quạt, dây điện,… Sau khi sang nhượng đất cho hai bà này, có vay thêm tiền Ngân hàng và tiền nhà thì đến ngày 17/12/2005, chính ông đem số tiền 1.345.000.000 đồng đến Công ty trả trực tiếp cho bà L4 vợ ông Q nhận theo bản đối chiếu công nợ ngày 17/12/2005 và chỉ còn nợ Công ty số tiền 400.000.000 đồng. Đến năm 2006 hoặc năm 2008 thì ông mượn đất của bà T8 cho Công ty thuê trừ 200.000.000 đồng, số tiền còn lại Công ty kiện ông ra Tòa án nhân dân huyện T6. Như vậy, ông đã trả nợ xong cho Công ty.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND huyện T6 trình bày:

UBND huyện T6 không đồng ý với yêu cầu của Công ty N về việc hủy GCNQSDĐ cấp cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3. Bởi vì, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giao dịch giữa ông X3, bà X4 với bà L và bà T3, thủ tục chuyển nhượng đúng quy định, nên UBND huyện L2 tiến hành cấp GCNQSDĐ cho bà Lvà bà T3 theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Khi cấp GCNQSDĐ cho bà L và bà T3 là cấp cùng thời điểm nên sơ đồ của hai thửa đất in nhầm vào giấy chứng nhận lẫn nhau. Tuy nhiên, đây là lỗi kỹ thuật nên có thể sửa chữa, điều chỉnh cho phù hợp khi người sử dụng đất có yêu cầu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND huyện L2 trình bày:

Các GCNQSDĐ số AĐ 930575 và GCNQSDĐ số AĐ 930574 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; trên cơ sở các hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông X3, bà X4 với bà L và bà T3 đã xác lập và thực hiện theo đúng ý chí của các bên, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, UBND huyện L2 không đồng ý với yêu cầu hủy GCNQSDĐ của Công ty N.

Tại bản tường trình và xác nhận ngày 07/01/2022, người làm chứng bà Nguyễn Thị Mỹ L4khai:

Công ty N do Công ty K thành lập và làm chủ sở hữu. Vào cuối năm 2005 ông X3 còn nợ tiền mua thức ăn của Công ty N nên hai bên có lập biên bản đối chiếu công nợ và sau khi thống nhất với gia đình, ông X3 đồng ý giao cho Công ty N 03 lô đất (thửa 308, thửa 198 và thửa 271, 337, 338) và các trang thiết bị trên đất tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng để cấn trừ nợ. Sau khi nhận bàn giao đất, Công ty K có cho ông Lê Phi L5 thuê 02 lô đất số 308 và 198 từ năm 2007 đến năm 2010. Sau đó, Công ty K đã giao cho Công ty N quản lý, sử dụng. Theo ông X3 khai là bà trực tiếp nhận tiền mặt của ông X3 để trả nợ là 1.345.000.000 đồng là hoàn toàn không có, vì ông X3 giao đất cho Công ty để cấn trừ nợ, chứ ông X3 không có trả tiền mặt cho bà số tiền trên.

Tại biên bản xác minh ngày 16/8/2022, người làm chứng bà Đỗ Thị Ngọc S1trình bày:

Ngày 03/12/2005, bà (bên B) là người trực tiếp ký tên vào Tờ sang nhượng đất nuôi trồng thủy sản với (bên A) là bà Nguyễn T8 do ông X3 ký thay để sang nhượng của bà T8 2.217m2, đất tọa lạc ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng với giá 30.000.000 đồng và bà T8 đã nhận đủ số tiền trên.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Ông T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút lại một phần đối với yêu cầu bà Trần Mỹ L trả phần đất có diện tích 29.099m2, tại thửa 308 và buộc bà Lâm Phạm Tú T3 trả phần có diện tích 24.042m2, tại thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng. Giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện còn lại và không thỏa thuận được với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Ông T4 là người đại diện theo ủy quyền cho các bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T7 không rút đơn phản tố và không có ý kiến thỏa thuận được với nguyên đơn và không đồng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2022/DS-ST ngày 05/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử:

1. Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 29.099m2 (theo đo đạc thực tế diện tích 30.484,4m2) thuộc thửa đất số 308 và với diện tích 24.042m2 (theo đo đạc thực tế diện tích 22.506,6m2) thuộc thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số AĐ 930575 và số số AĐ 930574 do Ủy ban nhân dân huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3.

1.1. Phần đất có diện tích 29.099m2 thuộc thửa 308 (Diện tích thực tế là 30.484,4m2), tờ bản đồ số 10 nêu trên, có số đo tứ cạnh như sau:

- Hướng đông giáp với ông Nguyễn Văn B, ông Nguyễn Văn X3 và ông Mạch Hoàng G1, có số đo 238,04m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 6,65m + 60,38m + 49,16m (Đoạn gấp khúc ngang) + 148,58m.

- Hướng tây giáp với một phần thửa 198 (Lâm Phạm Tú T3) và giáp đất ông Lâm Văn G, có số đo 275,58m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 5,18m (Đoạn gấp khúc ngang) + 54,77m + 92,62m.

- Hướng nam giáp với kênh thủy lợi, có số đo 89,04m.

- Hướng bắc giáp với ông Mạch Hoàng G1, có số đo 25,94m.

1.2. Phần đất có diện tích 24.042m2 thuộc thửa 198 (Diện tích thực tế là 22.506,6m2), tờ bản đồ số 10 nêu trên, có số đo tứ cạnh như sau:

- Hướng đông giáp với ông Lâm Văn G, giáp thửa 308 (Trần Mỹ L) và ông Mạch Hoàng G1, có số đo 313,36m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + Các đoạn gấp khúc ngang (24,56m+4,99m+7,34m) + 92,62m + 110,98m.

- Hướng tây giáp với ông Trương Văn T9 và ông Phạm Bá T10, có số đo 303,76m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 24,73m (Đoạn gấp khúc ngang) + 192,06m.

- Hướng nam giáp với kênh thủy lợi, có số đo 21,28m.

- Hướng bắc giáp với ông Phạm Bá T10, có số đo 80,27m.

2. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 29.099m2 thuộc thửa đất số 308 và diện tích 24.042m2 thuộc thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N. Hiện nay, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N đang quản lý, sử dụng thửa đất số 308 và 198.

(Kèm theo bản án là sơ đồ hiện trạng thửa đất do Công ty Trách nhiện hữu hạn Hưng Phú Thành lập ngày 04-1-2022) 3. Hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 930575 (do bà Trần Mỹ L đứng tên) và số AĐ 930574 (do bà Lâm Phạm Tú T3 đứng tên) do Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 đối với thửa đất số 308 và thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6 (huyện L2), tỉnh Sóc Trăng.

4. Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn Công ty N về việc yêu cầu bà Trần Mỹ L giao trả phần đất có diện tích 29.099m2, thuộc thửa số 308 và buộc bà Lâm Phạm Tú T3 giao trả phần đất có diện tích 24.042m2, thuộc thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty N.

5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 930575 (do bà Trần Mỹ L đứng tên) và số AĐ 930574 (do bà Lâm Phạm Tú T3 đứng tên) do Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 đối với thửa đất số 308 và thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6 (huyện L2), tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 20/9/2022 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ-VKS-DS đối với Bản án số 50/2022/DS-ST ngày 05/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng theo hướng sửa án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và chấp nhận phản tố của bị đơn.

Ngày 19/9/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhận đơn kháng cáo của bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ- VKS-DS ngày 20/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng; bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:

Bị đơn đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, giao 02 GCNQSDĐ cho bị đơn. Công ty N và ông X3 có mua bán đất, xác định công nợ ngày 17/12/2005. Ông X3 còn nợ tiền Công ty N. Ông X3 không có khả năng thanh toán nên giao tài sản cho Công ty N để cấn trừ nợ. Công ty N không có nhu cầu nên ông T7 giới thiệu bà T3, bà L mua hai phần đất. Hợp đồng chuyển nhượng đất năm 2005, ông X3 bà X4 chuyển nhượng thửa đất 308 cho bà L giá 390 triệu đồng. Hợp đồng ngày 03/12/2005 ông X3, bà X4 chuyển nhượng thửa 198 cho bà T3 giá 330 triệu đồng. Sau khi chuyển nhượng ngày 03/5/2000 thì bà T3, bà Lđược cấp GCNQSDĐ. Công ty đang giữ các giấy này. Bà T3, bà Lcó quyền sử dụng đất. Ông X3dùng tiền thanh toán cho Công ty. Ông X3 trả tiền mặt 1.345.000.000 đồng, Công ty hỗ trợ giảm tiền lãi cho ông X3. Lời trình bày của ông X3 phù hợp với bị đơn, nguyên đơn, giao tiền mặt cho ông X3đ ể trả cho Công ty N. Công ty không thể hiện có báo cáo hợp pháp, chặt chẽ, báo cáo tài chính nào của Công ty. Công ty K, Công ty N không thể hiện ở báo cáo tài chính. Mục 23 chi phí xây dựng dở dang. Trang số 10 báo cáo riêng của Công ty K chưa bao gồm báo cáo của Công ty N. Công ty N không bỏ tiền ra mua. Công ty không chuyển nhượng đất của ông X3, chỉ cấn trừ nợ, không có chi số tiền 1.345.000.000 đồng để chuyển nhượng đất. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty N có xuất trình giấy đề nghị chi, có chữ ký của ông Q, đề nghị chi mua đất của ông X3. Ông T7 cho rằng ghi giấy này đưa vợ ông tạm ứng sau đó đổi ý không chuyển nhượng. Đây là giấy nháp, không biết sao Công ty có giấy này. Ông X3 cấn trừ nợ. Chứng cứ 35 triệu đồng, đóng phí trước bạ. Ông X3 trình bày có nhận 35 triệu đồng sang tên ở thửa khác. Ông X3 nhận 35 triệu đồng, không thể hiện rõ thửa nào, giấy xác nhận ông X3 trình bày ông khó khăn nên ông Q bắt ép ông. Biên bản trả tiền thuê ngày 04/11/2010 của ông L5. Ông B1 có nhận 350 triệu đồng, không thể hiện ông L5 có thuê hay không nên chứng cứ này không có cơ sở.

Bà L, bà T3 sử dụng đất từ đó đến nay. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, nguyên đơn trả 02 GCNQSDĐ cho bị đơn.

Ông T4 đại diện bị đơn trình bày: Thống nhất ý kiến của người bảo vệ. Công ty trình bày bỏ tiền ra mua đất là không đúng. Ông X3 bán đất cho bà L 390 triệu đồng, bà T3 330 triệu đồng. Ông X3 bán thêm đất cho ông Q, L4 để có tiền trả cho Công ty. Công ty giảm tiền lãi cho ông X3. Công ty bàn giao sổ đỏ cho ông X3 để bán đất.

Ông T4 đại diện ông T7 trình bày: Không tranh luận.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:Bản án sơ thẩm đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, nội dung, đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm, bác kháng cáo của bị đơn. Có tồn tại quan hệ giao đất, cấn trừ nợ cho Công ty N. Biên bản đối chiếu công nợ thì ông X3 nợ Công ty N, giao thửa đất 308,198 là 700 triệu đồng, phù hợp xác nhận ngày 15/01/2016, lời khai của ông T7 ngày 28/9/2018. Ông T7 có lập đề xuất chi tiền mua đất của ông X3. Công ty N và ông X3 cấn trừ nợ, hỗ trợ lãi suất, giao GCNQSDĐ làm thủ tục sang tên ngày 15/9/2016. Ông X3 thay đổi lời khai, phát sinh sau khi giải quyết tranh chấp. Kháng nghị Viện kiểm sát cho rằng lời khai phù hợp. Lời trình bày của ông X3 không phù hợp, có cấn trừ nợ giao đất. Biên bản thỏa thuận ngày 13/12/2005 ông X3 giao đất cho Công ty N đất phát mãi để cấn trừ nợ. Đề nghị Viện kiểm sát xem xét lại Quyết định kháng nghị. Tài liệu chứng cứ hồ sơ đã rõ, 02 bên giao đất và giao bản chính GCNQSDĐ cho Công ty. Công ty quản lý sử dụng đất và cho ông L5 thuê nuôi tôm. Ông L5 xác nhận thuê đất của Công ty N. Hộ dân sinh sống lâu năm xác nhận ông L5 thuê đất, canh tác. Ông L5 trả thì Công ty trực tiếp sử dụng. Tại biên bản thẩm định tại chỗ, bà T3 không chỉ được ranh đất sử dụng. Việc mua bán đất, cấn trừ nợ là có thật. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty N là người sử dụng đất là phù hợp thực tế khách quan.

Không có việc chuyển nhượng đất, giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông X3 với bà L, bà T3. Lời khai mâu thuẫn.Thời điểm mua bán: Ông T4 khai giao tiền ngày 13/12/2005. Ngày 26/12/2005 ký hợp đồng, không biết giao tiền ở đâu. Lời khai của ông X3, bà L, bà T3 ngày 20/3/2006 giao đủ tiền 01 lần. Ông X3 khai nhận tiền mặt trả tại Công ty. Việc giao nhận tiền của ông X3, bà L, bà T3 mâu thuẫn. Ký kết hợp đồng chuyển nhượng: Ông T4 khai ngày ký 26/12/2005. Bà L, bà T3 khai ký ngày 20/3/2006. Hợp đồng chuyển nhượng ngày 13/12/2005. Công ty giữ bản chính GCNQSDĐ không thể công chứng sang tên được. Ông X3 khai khi nhận tiền năm 2006 mới giao đất. Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án, bị đơn không chỉ ranh giới sử dụng. Do đó, lời khai của các đương sự ông X3, bà L, bà T3, hợp đồng không công chứng, chứng cứ cho thuê hợp thức hóa hồ sơ. Công ty N là chủ thể thực sự, cấp giấy chứng nhận cho bà L, bà T3 không phù hợp thực tế. Đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm, bác yêu cầu kháng cáo.

Đại diện nguyên đơn ông T trình bày: Thống nhất ý kiến của người bảo vệ trình bày. Phiếu chi ngày 15/12/2005, bị đơn cho rằng giấy nháp, bác bỏ nhưng hình thực phù hợp. Công ty K sử dụng rất nhiều trong các vụ án tranh chấp đã được Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận. Ông T7 ghi tiền bằng số bằng chữ, ông Q duyệt chi. Về quản lý tài sản thì công ty quản lý tài sản quyền sử dụng đất. Bà L, bà T3 không giữ giấy tờ, không quản lý đất đai, không có ý kiến gì cho đến khi Công ty khởi kiện. Đề nghị hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn.

Đại diện nguyên đơn ông N1 trình bày: Thống nhất ý kiến của người bảo vệ trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nội dung: Qua phần xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, tài liệu chứng cứ phiên tòa sơ thẩm, các bên đưa ra chứng cứ, chứng cứ không có gì mới. Bị đơn kháng cáo. Chứng cứ bị đơn đưa ra là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chứng thực của UBND và được cấp GCNQSDĐ.

Hình thức Hợp đồng chuyển nhượng của bị đơn hợp pháp. Khi xem xét đánh giá thực chất của Hợp đồng, mới quan hệ của các bên chuyển nhượng. Trong vụ án này, ông X3 nguyên Bí thư xã. Ông T7 và 02 bị đơn có mối quan hệ. Ông T7 chồng bà T3, em bà L. Ông T7 nguyên Giám đốc Công ty N, thành viên Công ty K. Do đó, cần xem xét thận trọng các chứng cứ của các đương sự. Bị đơn không có chứng cứ chứng minh giao tiền và việc sử dụng đất. Các công dân có đất giáp ranh đất tranh chấp xác định ông L5 sử dụng đất, không biết thuê của ai. Năm 2017 - 2018 ông X3 đưa máy sử dụng đã xảy ra tranh chấp. Phía bị đơn không có quá trình sử dụng đất từ sau khi chuyển nhượng và giao tiền. Việc chuyển nhượng mang tính đối phó giữa ông T7, ông X3, bà L, bà T3. Chứng cứ nguyên đơn đưa ra biên bản thanh lý công nợ giữa ông X3 với Công ty N. Ông T7g iám đốc, ông X3 giao 03 thửa đất cho Công ty N cấn trừ nợ, có phần đất tranh chấp. Nguyên đơn có phiếu chi, chi mua đất của ông X3. Ông T7 đề xuất, có phê duyệt của ông Q - người có thẩm quyền. Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng, Công ty N đã thực hiện quyền sử dụng đất cho ông L5 thuê. Ông L5 thừa nhận. Biên bản ngăn chặn ngày 17/12/2017. Công ty N chưa đúng quy định của pháp luật, có chứng nhận giao tiền và sử dụng đất sau khi chuyển nhượng. Lời trình bày của ông X3 thời điểm đầu ông X3 thừa nhận giao đất cho Công ty N bù trừ nghĩa vụ. Sau ngày 17/12/2017, ông X3 thay đổi lời khai, nói bán trực tiếp cho bà L, bà T3. Khi đánh giá chứng cứ, lời khai ông X3 ban đầu phù hợp chứng cứ nguyên đơn đưa ra. Lời khai sau của ông X3 mâu thuẫn. Yêu cầu khởi kiện của Công ty N có cơ sở. Án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công ty N có căn cứ, đúng pháp luật. Viện kiểm sát rút phần kháng nghị về nội dung công nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn. Về án phí công ty khởi kiện có ba nội dung công nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bị đơn và yêu cầu bà T3, bà L giao đất.Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút yêu cầu buộc bị đơn giao đất. Tòa án chấp nhận. Tòa án đình chỉ theo yêu cầu của nguyên đơn. Án sơ thẩm chấp nhận 01 phần khởi kiện là mâu thuẫn. Nguyên đơn phải chịu án phí phần không chấp nhận 300.000 đồng là không đúng. Để bảo vệ pháp luật, cần sửa đổi nội dung này. Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, không buộc Công ty chịu án phí 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Các bị đơn bà Trần Mỹ L, bà Lâm Phạm Tú T3 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Ngọc T7 vắng mặt, nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa; đại diện theo ủy quyền của UBND huyện L2 và T6 vắng mặt có yêu cầu xét xử vắng mặt; ông Nguyễn Văn X3 và bà Hồ Thị X4 vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ-VKS-DS ngày 20/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng và kháng cáo của bà Trần Mỹ L, bà Lâm Phạm Tú T3, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Nguồn gốc các thửa đất số 308 và số 198 cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng thì các đương sự cũng như ông X3 và bà X4 đều thừa nhận là đất của vợ chồng ông X3, hộ ông X3 đứng tên thửa 198 và hộ bà X4 đứng tên thửa 308.

[2.2] Tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 03/12/2005, giữa Công ty N do ông T7 đại diện và ông X3 thì hai bên đối chiếu công nợ và thống nhất: Tính đến ngày 03/12/2005, ông X3 còn nợ Công ty N số tiền 1.560.908.941 đồng và tiền lãi đến ngày 03/12/2005 là 235.875.507 đồng; ông X3 sẽ giao cho Công ty N phát mãi trừ nợ 02 lô đất nuôi tôm, gồm: Lô đất ngoài đê do bà Nguyễn T8 đứng tên, diện tích 47.217m2 và bao gồm cả trang thiết bị. Trị giá 625.000.000 đồng và lô trong đê do ông Nguyễn Văn X3 đứng tên, diện tích 24.042m2 và do bà Hồ Thị X4 đứng tên, diện tích 29.099m2 và bao gồm cả trang thiết bị. Trị giá 700.000.000 đồng. Tổng giá trị hai lô đất phát mãi trừ nợ cho Công ty N 1.345.000.000 đồng và Công ty bớt một phần lãi thì ông X3 nợ Công ty số tiền còn lại 400.000.000 đồng.

[2.3] Theo thỏa thuận ngày 05/12/2005 thì đến ngày 15/12/2005, ông T7- nguyên Giám đốc Công ty N đã đề xuất chi tiền và có chữ ký duyệt của ông Q là Giám đốc Công ty K về việc đồng ý chi số tiền 1.345.000.000 đồng để chuyển nhượng đất của ông X3, bà X4 và tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 17/12/2005, giữa Công ty N do ông Đỗ Ngọc T7 làm Giám đốc với ông X3lập thủ tục để cấn trừ nợ, bớt lãi cho ông X3 và ông X3 thừa nhận còn nợ Công ty số tiền 400.000.000 đồng.

[2.4] Cùng ngày 17/12/2005 (BL277), ông X3 có làm biên nhận nhận của Công ty N 03 GCNQSDĐ do bà Nguyễn T8 đứng tên - số R 633809, do bà Hồ Thị X4 đứng tên - số V 967237 và của ông Nguyễn Văn X3 đứng tên - số D 330731. Lý do chuyển đổi tên để mua bán.

[2.5] Tại bản xác nhận “V/v giao đất cho Công ty N để phát mãi trừ nợ” của ông X3 ngày 15/9/2016 (BL35) có nội dung: Vào ngày 03/12/2005, tại Văn phòng Công ty, tôi và ông T7- đại diện Công ty đã lập biên bản về việc giao đất cho Công ty N để thu hồi nợ… Tổng giá trị các thửa đất phát mãi trừ nợ cho Công ty N là 1.345.000.000 đồng được cấn trừ vào số tiền mua thức ăn nuôi tôm tôi còn nợ Công ty. Như vậy, từ tháng 12/2005, tôi đã giao lại toàn bộ các thửa đất nêu trên cho Công ty N để cấn trừ nợ. Công ty N đã cấn trừ số tiền nợ 1.345.000.000 đồng cho tôi và có toàn quyền đối với các thửa đất, tôi không có bất cứ tranh chấp hay khiếu nại gì”.

[2.6] Quá trình giải quyết vụ án, ông X3 thay đổi lời khai, vì thời điểm sau này giữa Công ty và ông X3 phát sinh tranh chấp, nên ông X3 đã thay đổi lời khai và cho rằng vợ chồng ông sang nhượng đất cho bà T3 và bà L, nên lời khai của ông X3 sau này không khách quan và mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.

[2.7] Thực chất, giữa Công ty N và ông X3 có thỏa thuận về việc chuyển nhượng đất trừ nợ, nên ông X3 mới giao đất cho Công ty quản lý, sử dụng từ thời điểm cuối năm 2005 (tức là thời điểm cấn trừ nợ) cho đến nay, cụ thể:

[2.7.1] Cuối năm 2005, khi nhận bàn giao đất, Công ty N đã trực tiếp quản lý, sử dụng và có cho ông Lê Phi L5 thuê đất để nuôi tôm theo biên bản về việc trả tiền thuê ao nuôi tôm sú giữa ông L5 và đại diện Công ty ngày 14/11/2010 (BL569). Biên bản xác minh của Tòa án ngày 03/10/2018 (BL796), ông L5 xác nhận thuê đất của Công ty, chứ không thuê đất của ông T7.

[2.7.2] Biên bản xác minh của Tòa án ngày 03/10/2018, những hộ dân giáp ranh các thửa đất số 308 và thửa 198 là bà Trần Thị Z, bà Trương Thị Bố X4 đều xác nhận việc ông L5 canh tác, sử dụng đất thuê và không biết thuê đất của ai “trước đây có thấy ông L5 canh tác trên các thửa đất đang tranh chấp, đến đầu năm 2018 thì mới thấy ông X3 quay trở lại làm được vài tháng thì phát sinh tranh chấp”.

[2.7.3] Như vậy, lời khai của Công ty N về quá trình quản lý, sử dụng đất, nhận chuyển nhượng của ông X3 phù hợp với lời khai của ông X3, các giấy tờ cho thuê đất với ông L5, cũng như phù hợp với lời khai của ông L5, của những người làm chứng.

[2.8] Đối với lời khai ông Đỗ Ngọc T7 cho rằng Tờ “Chi 1.345.000.000đ ngày 15-2-2005 mua đất của ông X3 110.000m2” thì đây giống như mẫu nháp ông ghi lại để nhớ chứ không phải mẫu đề xuất. Ông T7 xác định Phiếu ghi này là giấy nháp của ông T7 là không có cơ sở chấp nhận vì Phiếu ghi này có chữ ký duyệt thanh toán của ông Q - Tổng Giám đốc Công ty K. Do đó, có căn cứ để xác định nguồn tiền dùng để chuyển nhượng đất của ông X3 và bà X4 là của Công ty K cấn trừ nợ với ông X3, bà X4 và ông T7 chỉ là người đại diện Công ty K để giao dịch với ông X3 và bà X4 đúng như lời khai của ông X3 trước đây. Mặt khác, sau khi ông X3 và bà X4 giao đất thì Công ty N đã tiếp nhận, quản lý, sử dụng đất từ đó đến nay và Công ty có cho ông Lê Phi L5 thuê từ năm 2007 đến 2010.

[2.9] Việc chuyển nhượng đất cấn trừ nợ giữa Công ty N và ông X3 là hoàn toàn có thật, phù hợp với ý chí của hai bên và thực tế là Công ty N đã cấn trừ nợ cho ông X3 và hoàn thành việc bàn giao đất, giấy tờ chủ quyền đất trên thực tế. Do đó, Công ty N mới thực sự là chủ thể nhận chuyển nhượng và trực tiếp quản lý, sử dụng đối với các phần đất có diện tích 29.099m2, thuộc thửa đất số 308 và 24.042m2, thuộc thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10 tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện L2, tỉnh Sóc Trăng.

Thực chất ông X3 đã giao đất cho Công ty N để cấn trừ nợ, nên Công ty N giữ bản chính giấy tờ đất và Công ty có nhờ ông X3 làm thủ tục sang tên cho Công ty, vì tại thời điểm đó X3 làm bí thư xã, làm lãnh đạo cán bộ địa chính xã nơi có đất. Theo đó, ông X3 đã nhận lại bản chính giấy tờ và tiền để giao hồ sơ cho cán bộ địa chính hoàn tất hồ sơ sang tên Công ty là phù hợp với chứng cứ theo biên nhận ngày 17/12/2005, ngày 03/5/2006 và lời khai nhận ngày 15/9/2016 của ông X3: “Vào ngày 17/12/2005, Công ty có nhờ tôi làm hồ sơ sang tên và tôi có nhận lại 03 giấy chứng nhận trên để giao hồ sơ cho cán bộ địa chính xã làm hoàn tất hồ sơ sang tên cho Công ty. Sau đó ông T7- đại diện Công ty liên hệ địa chính xã làm hồ sơ”.

[2.10] Bà L, bà T3 không có giao dịch chuyển nhượng đất với ông X3 nên không có bất cứ tài liệu, chứng cứ gì liên quan đến việc bàn giao tiền, bàn giao đất giữa hai bên. Đồng thời, lời khai của bà L, bà T3, ông X3 về việc trả tiền chuyển nhượng đất, bàn giao đất, ký hồ sơ cấp giấy đều mâu thuẫn nhưng không có chứng cứ để chứng minh, cụ thể:

[2.10.1] Về thời điểm chuyển nhượng đất và thanh toán tiền mua đất: Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/4/2018 (BL82) và ngày 21/7/2021, ông X3 khai “Ngày 17/12/2005 tôi trực tiếp thỏa thuận với bà Trần Thị L, bà T3 và chuyển nhượng đất cho bà L và bà T3 nhận tiền mặt trả cho công ty”, “sau khi sang nhượng đất cho bà L, bà T3 thì lấy tiền của hai bà này trả trực tiếp tại công ty và khi nhận tiền của bà L, bà T3 thì Công ty trả lại 02 giấy chứng nhận cho vợ chồng ông bà để ông bà giao cho bà L, bà T3”.

[2.10.2] Tại đơn phản tố ngày 05/7/2018 (BL299, 300, 324, 325) thì bà L, bà T3 lại khai: “Tôi và ông Nguyễn Văn X3, bà Hồ Thị X4 có đến UBND xã L3 để lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 20/3/2006 và tôi đã giao đủ tiền cho ông X3 và bà X4 một lần”.

[2.10.3] Đối với các lời khai về thời điểm giao nhận tiền của ông X3 và bà T3, bà L mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Ông X3 khai dùng tiền bán đất cho bà T3, bà L đã trả nợ cho Công ty và lấy lại giấy chứng nhận vào ngày 17/12/2005. Phía bà T3, bà L lại khai rằng thời điểm giao nhận tiền là ngày 20/3/2006 là sau thời điểm ông X3 trả nợ Công ty hơn 03 tháng. Mặc khác, tại biên bản lấy lời khai ngày 03/8/2022 thì ông T4 là người đại diện theo ủy quyền của các bị đơn khai “các bị đơn trả tiền chuyển nhượng đất ngày 03/12/2005 cho vợ chồng ông X3”.

[2.10.4] Về vấn đề ký hợp đồng chuyển nhượng, bàn giao đất. Tại Tờ trình bày ý kiến không ngày, tháng 8/2021 (BL961), bà L, bà T3 khai: Sau khi thanh toán đủ tiền mua đất thì sau đó hai bên cùng đến UBND xã L3 lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 20/3/2006... rồi cùng nhau xuống thực địa để bàn giao thửa đất chuyển nhượng cho chúng tôi.

[2.10.5] Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/01/2019 (sau BL805) ông X3 khai: chỉ ký trực tiếp vào hồ sơ chuyển nhượng có mặt địa chính xã, không thể hiện có bà T3, bà Lvà không nhớ rõ địa điểm ký ở đâu và “Sau khi nhận tiền xong là đầu năm 2006 thì vợ chồng tôi đã giao đất cho bà L, bà T3 để họ quản lý, sử dụng đất”.

[2.10.6] Tại các Biên bản xác minh của Tòa án ngày 03/10/2018 và lời khai của nhân chứng đều thể hiện Công ty N trực tiếp quản lý, sử dụng đất, hoàn toàn không hề có bà T3, bà L hay ông X3. Bản thân bà T3, bà Ldù cho rằng mình đã xuống thực địa nhận bàn giao đất từ ông X3 nhưng khi Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ thì bà T3, bà L lại không thể xác định được phần đất tranh chấp nằm ở vị trí nào, tứ cận ra sao. Riêng đối với các Hợp đồng thuê đất mà bị đơn cung cấp đều phát sinh sau khi đã xảy ra tranh chấp để hợp thức hóa hồ sơ, không có giá trị chứng cứ.

[2.10.7] Đối với lời khai của ông X3, bà L, bà T3 về việc chuyển nhượng đất, giao tiền, giao đất đều mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở để khẳng định hoàn toàn không tồn tại giao dịch mua bán đất giữa ông X3 với bà L, bà T3. Hồ sơ cấp giấy đứng tên bà L, bà T3 là do ông T7- thời điểm này là Giám đốc Công ty N vì mâu thuẫn nội bộ nên đã tự ý sang tên cho vợ và chị dâu đối với quyền sử dụng đất đứng tên Công ty chứ không có việc mua bán đất trên thực tế. Hơn nữa, nếu thực sự bà L, bà T3 là người đứng ra mua đất, thì theo tâm lý thường tình sẽ phải sốt sắng, chủ động đòi lại đất và bản chính giấy tờ nếu cho rằng quyền lợi bị xâm phạm nhưng thực tế bà T3, bà Lđều không có bất cứ động thái gì cho đến khi bị Công ty khởi kiện.

[3] Từ những nhận định nêu trên thì phần đất có tranh chấp diện tích (29.099 + 24.042) 53.141m2 thuộc các thửa đất số 308 và 198 là do Công ty K chi tiền để chuyển nhượng của vợ chồng ông X3 và bà X4 bằng cách cấn trừ nợ. Việc bà L, bà T3 không có chứng cứ để chứng minh việc Công ty K hoặc N tặng cho hoặc giao cho hai bà đứng tên quyền sử dụng đất nên việc ông T7 trực tiếp giao dịch với ông X3 và bà X4 đã thực hiện thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho bà L, bà T3 đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty K và Công ty N - là tổ chức được Công ty K giao cho trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Đồng thời, Công ty K cũng thừa nhận hai thửa đất số 308 và 198 đã giao thuộc về tài sản của Công ty N. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 53.141m2 thuộc hai thửa đất số 308 và 198 là của Công ty N và không chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn là có căn cứ.

[4] Đối với GCNQSDĐ số AĐ 930575 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L, với diện tích 29.099m2, thuộc thửa 308 và GCNQSDĐ số AĐ 930574 do UBND huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 03/5/2006 cho bà Lâm Phạm Tú T3, với diện tích 24.042m2, thuộc thửa 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng. khi cấp GCNQSDĐ số AĐ 930575 ngày 03/5/2006 đối với thửa 308 cho bà Trần Mỹ L và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 930574 ngày 03/5/2006 đối với thửa 198 cho bà Lâm Phạm Tú T3, UBND huyện L2 đã căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên có chứng thực hợp pháp là đúng quy định về cấp GCNQSDĐ. Tuy nhiên, các thửa đất 308 và 198 là do Công ty K chi tiền (cấn trừ nợ) để làm thủ tục chuyển nhượng của vợ chồng ông X3 và vợ chồng ông X3 đã giao cho Công ty N quản lý, sử dụng nhưng bà L, bà T3 tự ý làm thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất chưa có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của Công ty N hay Công ty K. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy GCNQSDĐ số AĐ 930575 và GCNQSDĐ số AĐ 930574 do UBND huyện L2 cấp cùng ngày 03-05-2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 là có căn cứ.

[5] Tại tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút lại một phần khởi kiện về việc yêu cầu bà Trần Mỹ L giao trả phần đất có diện tích 29.099m2, thuộc thửa số 308 và buộc bà Lâm Phạm Tú T3 giao trả phần đất có diện tích 24.042m2, thuộc thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty N là hoàn toàn tự nguyện và không bị ép buộc. Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết phần nguyên đơn rút đơn khởi kiện là đúng pháp luật nhưng vẫn tính án phí là chưa chính xác, điều chỉnh lại cho phù hợp.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật, nhưng tính án phí chưa đúng. Bà L, bà T3 kháng cáo không cung cấp chứng cứ khác làm thay đổi nội dung vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà L, bà T3, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, điều chỉnh án phí cho phù hợp.

[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án nên các đương sự không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Điều 166; Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận việc rút một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ-VKS-DS ngày 20/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng về nội dung công nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn.

Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐ-VKS- DS ngày 20/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng về án phí.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Mỹ L, bà Lâm Phạm Tú T3, Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 50/2022/DS-ST ngày 05/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về án phí, 1. Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N, về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 29.099m2 (theo đo đạc thực tế diện tích 30.484,4m2) thuộc thửa đất số 308 và với diện tích 24.042m2 (theo đo đạc thực tế diện tích 22.506,6m2) thuộc thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dung đất số AĐ 930575 và số số AĐ 930574 do Ủy ban nhân dân huyện L2 (nay là huyện T6), tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3.

1.1. Phần đất có diện tích 29.099m2 thuộc thửa 308 (Diện tích thực tế là 30.484,4m2), tờ bản đồ số 10 nêu trên, có số đo tứ cạnh như sau:

- Hướng đông giáp với ông Nguyễn Văn B, ông Nguyễn Văn X3 và ông Mạch Hoàng G1, có số đo 238,04m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 6,65m + 60,38m + 49,16m (Đoạn gấp khúc ngang) + 148,58m.

- Hướng tây giáp với một phần thửa 198 (Lâm Phạm Tú T3) và giáp đất ông Lâm Văn G, có số đo 275,58m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 5,18m (Đoạn gấp khúc ngang) + 54,77m + 92,62m.

- Hướng nam giáp với kênh thủy lợi, có số đo 89,04m.

- Hướng bắc giáp với ông Mạch Hoàng G1, có số đo 25,94m.

1.2. Phần đất có diện tích 24.042m2 thuộc thửa 198 (Diện tích thực tế là 22.506,6m2), tờ bản đồ số 10 nêu trên, có số đo tứ cạnh như sau:

- Hướng đông giáp với ông Lâm Văn G, giáp thửa 308 (Trần Mỹ L) và ông Mạch Hoàng G1, có số đo 313,36m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + Các đoạn gấp khúc ngang (24,56m+4,99m+7,34m) + 92,62m + 110,98m.

- Hướng tây giáp với ông Trương Văn T9và ông Phạm Bá T10, có số đo 303,76m (Trong đó, chỉ giới đường thủy nội địa là 25m) + 24,73m (Đoạn gấp khúc ngang) + 192,06m.

- Hướng nam giáp với kênh thủy lợi, có số đo 21,28m.

- Hướng bắc giáp với ông Phạm Bá T10, có số đo 80,27m.

2. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 29.099 m2 thuộc thửa đất số 308 và diện tích 24.042m2 thuộc thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng là của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N. Hiện nay, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N đang quản lý, sử dụng thửa đất số 308 và 198.

(Kèm theo bản án là sơ đồ hiện trạng thửa đất do Công ty Trách nhiện hữu hạn Hưng Phú Thành lập ngày 04-1-2022) 3. Hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 930575 (do bà Trần Mỹ L đứng tên) và số AĐ 930574 (do bà Lâm Phạm Tú T3 đứng tên) do Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 đối với thửa đất số 308 và thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6 (huyện L2), tỉnh Sóc Trăng.

4. Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn Công ty N về việc yêu cầu bà Trần Mỹ L giao trả phần đất có diện tích 29.099m2, thuộc thửa số 308 và buộc bà Lâm Phạm Tú T3 giao trả phần đất có diện tích 24.042m2, thuộc thửa số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty N.

5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3, về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 930575 (do bà Trần Mỹ L đứng tên) và số AĐ 930574 (do bà Lâm Phạm Tú T3 đứng tên) do Ủy ban nhân dân huyện L2, tỉnh Sóc Trăng cấp cùng ngày 03/5/2006 cho bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 đối với thửa đất số 308 và thửa đất số 198, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp Nam Chánh, xã L3, huyện T6 (huyện L2), tỉnh Sóc Trăng.

6. Về án phí dân sự sơ thẩm:

6.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N không chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn tạm nộp án phí số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 600.000 đồng (Trong đó số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0006583 và 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0006584) cùng ngày 19-01-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T6, tỉnh Sóc Trăng cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N.

6.2. Bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 mỗi người chịu án phí dân sự sơ thẩm là 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí của mỗi người đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004404 (ông T4nộp thay bà L) và số 0004405 (ông T4 nộp thay bà T3) cùng ngày 10-7-2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà L và bà T3 mỗi người phải nộp thêm 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

7. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tổng cộng là 56.290.000 đồng (Năm mươi sáu triệu, hai trăm chín mươi ngàn đồng) bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 mỗi người phải chịu 28.145.000 đồng. Nhưng Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N đã nộp số tiền trên, nên buộc bà Trần Mỹ L và bà Lâm Phạm Tú T3 mỗi người phải hoàn trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N số tiền là 28.145.000 đồng (Hai mươi tám triệu, một trăm bốn mươi lăm ngàn đồng).

8. Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu.

Hoàn tạm nộp án phí là 300.000 đồng cho bà Lâm Phạm Tú T3 theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002481 ngày 29/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì những người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất số 360/2023/DS-PT

Số hiệu:360/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về