Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 258/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 258/2022/DS-PT NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 87/2022/TLPT-DS ngày 17/3/2022 về việc "Tranh chấp chia thừa kế”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2021/DS-ST ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 105/2022/QĐ-PT ngày 14/4/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 119/QĐPT- HPT ngày 25/4 /2022; Thông báo mở lại phiên tòa số 363/TB- TA ngày 23/6/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 282/QĐPT- HPT ngày 11/7/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1953.

Trú tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1965.

Trú tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Cụ Lỗ Thị P, sinh năm 1929 (đã chết).

Trú tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1950.

Trú tại: Tổ dân phố 5, Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958.

Trú tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1960.

Trú tại: Tổ dân phố 5, Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972.

Trú tại: Thôn 5, xã Kim Quan, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1974.

Trú tại: Thôn Đan Thê, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền của bà Thuận, bà Hòa, bà Phi, bà Tiện là ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB.

- Ông Nguyễn Hoàng BB, sinh năm 1970.

- Bà Nguyễn Thị M2, sinh năm 1972.

Cùng trú tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền của bà Mai là ông Nguyễn Hoàng BB. Văn bản ủy quyền ngày 15/10/2020.

- Công ty Luật TNHH Bách D.

Địa chỉ: Cụm 4, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Đại diện theo pháp luật: Luật sư Dương Văn Mai.

- Ủy ban nhân dân xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội. Địa chỉ: Xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn D2, Chủ tịch.

- Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Mạnh H, Chủ tịch.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị N, Trưởng phòng Tài nguyên vàMôi trường huyện B. Văn bản ủy quyền ngày 18/4/2022.(Xin vắng mặt) Do có kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng V là bị đơn; bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 là những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau: Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H trình bày:

Bố ông là cụ Nguyễn Hoàng T (sinh năm 1930, chết ngày 18/12/2006) mẹ ông là cụ Lỗ Thị P (sinh năm 1929, chết ngày 08/6/2020) hai cụ sinh được 8 người con gồm: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1950; ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1953; bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1960; ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1965; ông Nguyễn Hoàng BB, sinh năm 1970; bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972; bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1974. Hai cụ không có con riêng, con nuôi nào khác. Cha mẹ cụ T, cụ P đều đã chết trước hai cụ.

Trước đây, cụ T, cụ P sinh sống ngoài đê sông Đà, khoảng năm 1971 nước lụt, hai cụ được giao sử dụng thửa đất số 56 (bản đồ 299), diện tích 2.316m2 tại thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội. Quá trình sinh sống hai cụ làm nhà ở, trực tiếp quản lý toàn bộ thửa đất. Năm 2006, cụ T chết không để lại di chúc.

Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của cụ Nguyễn Hoàng T theo pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, ngày 08/6/2020, cụ Lỗ Thị P chết, ông Nguyễn Hoàng H đề nghị chia thừa kế của cụ Lỗ Thị P theo di chúc lập ngày 26/02/2020.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng V trình bày:

Về huyết thống ông thống nhất ý kiến như nguyên đơn trình bày.

Nguồn gốc thửa đất số 56 tờ bản đồ 09 (bản đồ 299) xã Thuần Mỹ là do cha mẹ ông cụ T, cụ P được Nhà nước cấp chạy lụt năm 1971. Cha mẹ ông sinh sống, nuôi các con lớn lên ở thửa đất nêu trên, năm 1989, ông kết hôn, được cụ T, cụ P chia cho 600m2 đất trong thửa đất nêu trên, vị trí được chia nằm ở giữa thửa đất, một bên giáp phần đất các cụ đã chia cho em Nguyễn Hoàng BB, một bên giáp phần đất có nhà ở của hai cụ. Ông đã làm nhà ở một thời gian trên phần đất được bố mẹ chia cho, sau đó do nhu cầu cuộc sống ông chuyển ra mua đất ở riêng trên một thửa riêng biệt, phần đất được cha mẹ cho vợ chồng ông cùng canh tác quản lý. Đối với phần diện tích đất còn lại của thửa 56 chưa chia cho các con, cha mẹ ông vẫn sinh sống tại ngôi nhà cấp 4 trên đó đến khi cụ T chết năm 2006 thì cụ P tiếp tục sinh sống một mình ở đó, các con đi lại trông nom. Sau này ông Hùng có đón cụ P về nhà ông Hùng ở xã Minh Quang. cụ T chết không để lại di chúc nhưng trước đó cụ có nói ngôi nhà các cụ ở sau này chia cho mỗi người con trai một gian nhà để làm nhà thờ. Ông Hùng khởi kiện, ông đề nghị chia thừa kế theo lời của cụ T, không đồng ý chia di sản của cụ T theo pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cụ Lỗ Thị P trình bày:

Cụ kết hôn với cụ Nguyễn Hoàng T, hai cụ sinh được 8 người con gồm: Nguyễn Thị P; Nguyễn Hoàng H; Nguyễn Thị H; Nguyễn Thị Th; Nguyễn Hoàng V; Nguyễn Hoàng BB; Nguyễn Thị T; Nguyễn Thị T2. Ngoài ra không ai có con nào khác. Bố mẹ đẻ của hai cụ đều chết từ rất lâu, đến nay cụ không nhớ thời gian chết. Trong thời gian hôn nhân của hai cụ, vào năm 1971 vỡ đê, vợ chồng cụ được Nhà nước giao cho sử dụng đất ở tại thôn 6, xã Thuần Mỹ, nay là thửa 56, tờ bản đồ 09 bản đồ 299, vợ chồng cụ sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai, hai cụ có làm nhà ở, nuôi dạy các con lớn lên từ đó. Trong thời gian sử dụng, cụ không nhớ chính xác năm nào nhưng cụ và cụ T có thống nhất chia một phần diện tích đất cho hai con là Nguyễn Hoàng BB và Nguyễn Hoàng V. Ông Bắc đã làm nhà ở và quản lý sử dụng phần đất được chia liên tục từ đó đến nay. Phần đất chia cho ông Việt lúc đầu ông Việt có làm nhà ở nhưng sau đó lại chuyển đi ở nơi khác và bán phần được chia cho ông Hùng. Toàn bộ việc chia đất cho các con thực hiện bằng lời nói và có chỉ ranh giới ngoài thực địa. Cụ không nắm được diện tích đã chia chính xác là bao nhiêu. Việc ông Việt bán lại đất cho ông Hùng cũng không lập văn bản gì. Khi chia đất cho ông Việt, ông Bắc, cụ T có vẽ sơ đồ vào một quyển sổ, sổ nhật ký này do ông Hùng lưu giữ. Năm 2006, cụ T chết đột ngột, không có di chúc để lại, cụ là người đứng ra ma chay cho cụ T, các con có đóng góp, khi cụ T chết, vợ chồng cụ cũng không nợ nần ai. Sau khi cụ T chết, cụ sống một mình trên phần nhà đất còn lại của hai vợ chồng đến cuối năm 2019 thì vợ chồng ông Hùng, bà Chi đón cụ về phụng dưỡng. Hiện phần đất của vợ chồng cụ còn lại là phần đất có nhà ở cấp 4. Đây là tài sản chung của cụ và cụ T. Ông Hùng là con trai trưởng nuôi dưỡng cụ, nay cụ muốn ông Hùng làm lại gian nhà gian cửa trên phần thửa đất 56 cho cụ ở để lo hương khói sau này nhưng các con khác không cho làm. Ông Hùng khởi kiện giải quyết chia thừa kế của cụ T cụ nhất trí hoàn toàn. Đối với phần tài sản của cụ và di sản của cụ T mà cụ được hưởng cụ giao lại toàn bộ cho ông Hùng để ông Hùng quản lý sử dụng và lo hậu sự thờ cùng sau này. Cụ tuổi cao, sức yếu ủy quyền lại toàn bộ cho ông Nguyễn Hoàng H thay mặt cụ giải quyết vụ án tại Tòa án.

Ngày 08/6/2020, cụ Lỗ Thị P chết. Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H giao nộp bản di chúc của cụ Lỗ Thị P lập ngày 26/02/2020. Nội dung di chúc xác định: Về gia đình: cụ P có chồng là Nguyễn Hoàng T và 8 người con. Về tài sản: Vợ chồng cụ tạo lập được thửa đất số 56, tờ bản đồ 09, diện tích 2316m2. Phần tài sản cụ P là 2.316m2/2 = 1.158m2. Ý nguyện của cụ P: Toàn bộ tài sản chung của cụ với cụ Nguyễn Hoàng T sẽ để lại cho con trai là Nguyễn Hoàng H được quyền quản lý sử dụng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hoàng BB trình bày:

Về huyết thống thống nhất ý kiến như nguyên đơn, bị đơn trình bày Về tài sản của hai cụ là thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ do Nhà nước cấp cho bố mẹ ông năm 1971. Năm 1990, bố mẹ ông chia cho hai con là Nguyễn Hoàng V 600m2; Nguyễn Hoàng BB 840m2. Phần đất ông được chia năm 1992 ông đã làm nhà ở, quá trình sinh sống đến nay đã hoàn thiện xây dựng tường bao, công trình phụ, trồng cây trên đất, đóng thuế trực tiếp với Nhà nước. Diện tích còn lại hai cụ chưa chia cho ai. Hiện trên đất có nhà cấp 4 và cây cối mẹ ông đã thu. Năm 2006, cụ T chết không để lại di chúc, từ năm 2006 đến nay ông là người đóng thuế đất đối với phần đất còn lại của bố mẹ ông. Việc mai táng cụ T do cụ P lo liệu, nay không có tranh chấp. Ông không đồng ý chia thừa kế theo pháp luật mà phải chia theo lời nói của bố ông khi còn sống là ngôi nhà ở cấp 4 của bố mẹ ông có bốn gian thì chia cho ông Việt 1 gian, chia cho ông 1 gian để làm nhà thờ.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M2 ủy quyền toàn bộ cho chồng là ông Nguyễn Hoàng BB tham gia tố tụng, quyết định giải quyết toàn bộ tranh chấp trong vụ án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày:

Về huyết thống thống nhất ý kiến như nguyên đơn, bị đơn trình bày.

Về tài sản của hai cụ là thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ do nhà nước cấp cho hai cụ năm 1971. Năm 1990, hai cụ chia cho hai con là Nguyễn Hoàng V 600m2; Nguyễn Hoàng BB 840m2.; phần đất còn lại hai cụ ở chưa chia cho ai. Năm 2006, cụ T chết không để lại di chúc. Hiện trên phần đất còn lại của bố mẹ có nhà ở bốn gian cấp 4, còn cây cối cụ P thu. Nguyện vọng của bà Hòa là giải quyết chia nhà bốn gian của bố mẹ cho ba người con trai mỗi người một gian nhà để làm nhà thờ, không được tháo dỡ, các chị em gái không đòi hỏi gì. Bà Hòa không đồng ý việc chia thừa kế theo pháp luật mà phải chia theo lời của cụ T. Còn nếu ông Hùng yêu cầu chia theo pháp luật thì kỷ phần của bà được hưởng thừa kế bà sẽ nhận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T cùng trình bày:

Về huyết thống thống nhất ý kiến như nguyên đơn, bị đơn trình bày Về tài sản: Năm 1971 chạy lụt, cụ T, cụ P được nhà nước cấp sử dụng đất nay là thửa 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ. Diện tích đất hai bà đều không nắm được. Trong quá trình sử dụng đất các cụ có chia một phần đất cho hai con là Nguyễn Hoàng V và Nguyễn Hoàng BB, ông Bắc đã làm nhà ở và sử dụng riêng biệt từ năm 1992 đến nay, ông Việt làm nhà ở năm 1990, ở được ba năm thì chuyển đi ở nơi khác, phần đất được chia sau này làm vườn. Phần đất còn lại của hai cụ có nhà cấp 4, hai cụ tiếp tục sinh sống trên đất, cụ T có dặn khi còn sống là nhà ở bốn gian sau này chia cho ba người con trai mỗi người một gian, còn lại một gian làm nhà thờ chung cho có chỗ chị em đi về thắp hương ông bà tổ tiên. Năm 2006 thì cụ T chết đột ngột không để lại di chúc. cụ P tiếp tục sinh sống một mình trên đất dưới sự trông nom của hai con trai Nguyễn Hoàng H, Nguyễn Hoàng V và các con đến cuối năm 2019. Nguyện vọng của bà Phi, bà Tiện đều không đòi hỏi quyền lợi đất đai nhà cửa của bố mẹ mà thực hiện việc chia theo lời dặn của bố. Trường hợp chia thừa kế theo pháp luật thì bà Phi, bà Tiện nhận kỷ phần của mình và giao lại cho ông Nguyễn Hoàng BB, Nguyễn Hoàng V sử dụng vì ông Bắc, ông Việt đã lo cho cụ P những năm qua. Bà Phi, bà Tiện đều không nhất trí với nội dung di chúc của cụ P lập ngày 26/2/2020 do nội dung di chúc sai sự thật, khi cụ còn sống ông Hùng sống bạc với cụ, phần đất của hai cụ một phần đã chia cho ông Việt, ông Bắc. Khi cụ chết ông Việt, ông Bác đứng ra lo chôn cất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị Th cùng trình bày:

Về huyết thống thống nhất ý kiến như nguyên đơn, bị đơn trình bày Nguồn gốc thửa đất số 56 tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ là do nhà nước giao cho vợ chồng cụ T, cụ P sử dụng từ năm 1971, khi đo đạc do cụ T đứng tên trên bản đồ. Năm 2006 cụ T chết không để lại di chúc, việc mai táng cụ T do cụ P lo liệu, không có tranh chấp gì. cụ P tiếp tục quản lý sử dụng đất và chung hộ khẩu với ông Nguyễn Hoàng H từ năm 1990 đến nay. Hiện trên đất có nhà cấp 4 của hai cụ xây dựng 4 gian đã xuống cấp dột nát, và nhà ngang 3 gian cấp 4 do ông Hùng tạo dựng, cây cối hoa quả không có. Di nguyện của cụ T chia đất cho ba người con trai theo sơ đồ cũng là nói miệng, không có giấy tờ gì. Hiện tại phần ông Bắc được chia thì ông Bắc vẫn ở, phần ông Việt được chia đã bán cho ông Hùng. Bà Thuận, bà Tám nhất trí việc chia thừa kế theo pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty Luật Bách D do Luật sư Dương Đức Mai đại diện trình bày:

Công ty Luật Bách D tiếp nhận yêu cầu tư vấn của cụ Lỗ Thị P về việc lập di chúc. Hồ sơ tài liệu cụ P mang đến xin tư vấn lập di chúc gồm: Bản sao Biên bản làm việc ngày 28/12/2019 lập tại xã Thuần Mỹ; Pho to Biên bản hội nghị hòa giải ngày 03/01/2020 của Ban Công tác mặt trận thôn 6, xã Thuần Mỹ; Bản sao biên bản làm việc ngày 14/01/2020 giữa cụ Lỗ Thị P và UBND xã Thuần Mỹ liên quan tới việc tranh chấp đất đai; Bản sao biên bản làm việc về cung cấp thông tin hồ sơ liên quan đến thửa đất thổ cư tại thôn 6, xã Thuần Mỹ giữa đại diện UBND xã Thuần Mỹ và ông Nguyễn Hoàng V; Bản sao biên bản hòa giải tranh chấp đất đai lập ngày 14/01/2020 tại UBND xã Thuần Mỹ; Trích lục bản đồ 299, thửa đất 56, tờ bản đồ 09 diện tích 2.316m2. Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Công ty Luật Bách D đã pho to sao chụp lưu hồ sơ văn phòng còn toàn bộ văn bản cụ P mang đến đều trả lại cho cụ P. Với các tài liệu và cụ P trình bày trực tiếp tại Công ty Luật Bách D thì Công ty nhận thấy có căn cứ xác định cụ P có quyền sử dụng đối với thửa đất 56, tờ bản đồ 09 diện tích 2.316m2 tại thôn 6, xã Thuần Mỹ nên phía Công ty đã tiến hành việc tư vấn quy định pháp luật có liên quan để giải đáp pháp luật cho cụ P. Căn cứ Luật Hôn nhân gia đình, Bộ luật dân sự năm 2015. Ngày 26/02/2020 Công ty Luật Bách D mời cụ Lỗ Thị P đến Văn phòng giao dịch tại cụm 4, thị trấn Phúc Thọ, huyện Phúc Thọ, Hà Nội để thống nhất nội dung di chúc. Sau khi đọc xong bản thảo di chúc, cụ P đã hoàn toàn đồng ý với dự thảo được soạn và đồng ý điểm chỉ vào các trang dưới sự chứng kiến của hai người làm chứng là ông Phạm Hồng Ngọc và bà Nguyễn Thùy Linh là nhân viên Công ty. Đại diện Công ty Luật Bách D ký xác nhận chữ ký của hai cán bộ làm chứng đang làm việc tại Công ty. Công ty Luật Bách D cho rằng có căn cứ để công nhận nội dung di chúc của cụ Lỗ Thị P vì nó thể hiện đúng ý chí mong muốn của cụ, thời điểm lập di chúc cụ P hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, hoàn toàn tự nguyện và khẳng định nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình khi điểm chỉ vào di chúc. Những người làm chứng Nguyễn Thùy Linh và Phạm Hồng Ngọc đều có lời khai khẳng định việc cụ P ký và điểm chỉ vào bản di chúc ngày 21/02/2020 khi hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, tự nguyện. Cụ nghe và trả lời đúng, đầy đủ tên cụ ông và các con. Di chúc được soạn theo đúng ý nguyện của cụ P.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND xã Thuần Mỹ, UBND huyện Ba Vì có quan điểm:

Thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ nguồn gốc trước năm 1970 là do Nhà nước quản lý. Năm 1971, do tình trạng lụt lội vỡ đê, Nhà nước giao cho vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P sử dụng. Tuy nhiên các tài liệu lưu trữ đến nay không còn. Vợ chồng cụ T, cụ P cùng các con sinh sống trên đất được giao đến khi Nhà nước đo đạc vào khoảng năm 1986 - 1987 xác định diện tích là 2.316m2, trên tờ bản đồ không ghi tên chủ sử dụng đất. Tại sổ mục kê đất đai đất thổ cư đồi, quyển 1 lập ngày 26/9/1993 trang 32 thể hiện thửa đất số 56 có ba người đứng tên: Nguyễn Hoàng T, diện tích 948m2¨; Nguyễn Hoàng V 600m2; Nguyễn Hoàng BB 768m2. Việc gia đình cụ T chia thửa đất số 56 làm ba phần mang tên ba người thì hiện không có hồ sơ lưu trữ. Tuy nhiên về nguyên tắc trên sổ sách lưu trữ thể hiện thì việc phân chia đó phải có sự thống nhất trước khi lập sổ. Thực tế sử dụng đất tại địa phương, vợ chồng ông Nguyễn Hoàng BB sử dụng một góc riêng tiếp giáp phần đất nông nghiệp, xung quanh có tường bao ranh giới, một phần đất có nhà ở của cụ T, cụ P sử dụng đến khi cụ T chết năm 2006, một phần ở giữa để trống không có công trình kiến trúc trên đất. Về việc nộp thuế sử dụng đất từ năm 1993 đến nay, ông Nguyễn Hoàng BB thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho toàn bộ thửa đất số 56. Ngoài sổ mục kê đất đai đất thổ cư đồi lập ngày 26/9/1993 và tờ bản đồ 09 (bản đồ 299) thì hiện nay không còn tài liệu quản lý nào khác. Tại tờ bản đồ 09 bản đồ 299 đo vẽ năm 1987 thì diện tích thửa 56 thể hiện là 2.316m2. Thực tế hiện nay là 2.661m2, tăng 345,1m2. Diện tích thực tế hiện nay là đúng số học, diện tích ghi trên tờ bản đồ 09 bản đồ 299 là tính toán sai. Ngoài ra, hiện trạng thửa đất số 56 còn có phần diện tích tăng thêm do lấn chiếm đường giao thông nông thôn, lấn chiếm đất nông nghiệp. Đây là đất công do Nhà nước quản lý, để nghị người sử dụng đất trả lại phần lấn chiếm. Đối với phần diện tích đất tăng thêm tại vị trí ranh giới thửa đất số 47 hộ ông Kiều Quang Quân đã có tường bao hộ ông Quân xây dựng đề nghị giải quyết theo luật dân sự, nếu hai hộ không tranh chấp ranh giới thì giao phần diện tích tăng thêm cho chủ sử dụng thửa đất 56 sử dụng và thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo luật đất đai.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2021/DS-ST ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Hoàng H về việc chia tài sản là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Hoàng T theo pháp luật.

+ Xác định tài sản chung của vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P là quyền sử dụng một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ, diện tích 1.208,4m2. Trong đó có là 175,5m2 đất ở, giá trị 127.413.000đ;

1.032.9m2 đất trồng cây lâu năm giá trị 130.145.400đ; 01 giếng nước trị giá 8.856.000đ). Tổng giá trị tài sản là di sản thừa kế là: 266.414.400đ. Thửa đất được giới hạn bởi các điểm 1, 34, 43, 21, 22,23, 24, 25, 26, 27, 28,29,33, 1 (Có bản vẽ sơ đồ kèm theo bản án).

+ Xác định di sản thừa kế của cụ Nguyễn Hoàng T là quyền sử dụng một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ diện tích là 604,2m2 trong đó quyền sử dụng đất ở 87, 75m2; đất vườn 516,45m2 và ½ giá trị giếng nước 4.428.000đ. Tổng giá trị 133.207.200đ.

+ Xác định tài sản của cụ Lỗ Thị P là quyền sử dụng đất một phần thửa đất số 56 tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ, diện tích 604,2m2 trong đó quyền sử dụng đất ở 87, 75m2; đất vườn 516,45m2 và ½ giá trị giếng nước 4.428.000đ. Tổng giá trị 133.207.200đ + Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Hoàng T gồm 9 người: Vợ là Lỗ Thị P và các con: Nguyễn Thị P, Nguyễn Hoàng H, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Hoàng BB, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T2.

+ Xác định kỷ phần thừa kế di sản của cụ T theo quy định của pháp luật: mỗi kỷ phần trị giá: 133.207.200đ : 9 = 14. 800.800đ.

+ Công nhận sự tự nguyện của các đương sự không tính giá trị cây cối - Giao cho ông Nguyễn Hoàng H được hưởng toàn bộ tài sản của cụ Lỗ Thị P, kỷ phần thừa kế cụ P nhận đối với di sản của cụ T và kỷ phần thừa kế của ông Hùng đối với di sản của cụ T. Giá trị là 148.008.000đ + 14.800.800đ = 162.808.800đ.

- Xác định các điểm từ 21,43,34 là ranh giới giữa 02 thửa đất ông Nguyễn Hoàng H và ông Nguyễn Hoàng V. Giao ông Nguyễn Hoàng H được quản lý sử dụng toàn bộ phần diện tích đất, tài sản trên đất của vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P là một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ, diện tích 1.208,4m2 trong đó có là 175,5m2 đất ở, giá trị 127.413.000đ; 1.032.9m2 đất trồng cây lâu năm giá trị 130.145.400đ; 01 giếng nước trị giá 8.856.000đ. Tổng giá trị là: 266.414.400đ. Thửa đất được giới hạn bởi các điểm 1, 34, 43, 21, 22,23, 24, 25, 26, 27, 28,29,33, 1. (Có bản vẽ sơ đồ kèm theo bản án).

Buộc ông Nguyễn Hoàng H phải thanh toán cho những người thừa kế gồm các ông bà: Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị H, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Hoàng BB, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T2 mỗi người một kỷ phần thừa kế số tiền là 14.800.800đ.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật ông Nguyễn Hoàng H có quyền, nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký, kê khai, cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn ông Nguyễn Hoàng V; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa:

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng V đề nghị HĐXX không công nhận di chúc của cụ P; không chia thừa kế như bản án sơ thẩm, để lại diện tích sân và nhà làm nơi thờ cúng chung. Ông Bắc có nhiều công sức nên cần xem xét trích công sức cho ông Bắc.

Nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng H đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hoàng BB trình bày: cụ T và cụ P đã chia đất cho ông và ông Việt nên diện tích đất của ông và ông Việt không còn là di sản. Nhà và đất cụ P quản lý là nhà thờ tổ tiên không được bán và chia theo quy định của Luật đất đai. Ông đóng thuế đất từ năm 2006 đến nay nên có nhiều công sức. Trường hợp nếu phải chia thừa kế thì ông đề nghị được trích công sức bằng ½ diện tích đất để làm nhà thờ.

HĐXX công bố lời khai của các đương sự vắng mặt.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2021/DS-ST ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bắc, trích một phần công sức cho ông Bắc trước khi chia thừa kế.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hoàng V; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Về diện và hàng thừa kế:

Sinh thời cụ Nguyễn Hoàng T, cụ Lỗ Thị P sinh được 08 người con gồm: Bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2, ngoài ra cụ T, cụ P không có người con chung, con riêng, con ngoài giá thú nào khác.

Ngày 18/12/2006 cụ T chết không để lại di chúc. Bố mẹ đẻ cụ T (cụ Nguyễn Hoàng Cẩm, cụ Phạm Thị Dụ) đã chết trước đó.

Hàng thừa kế thứ nhất của cụ T gồm cụ Lỗ Thị P, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 08/6/2020 cụ P chết. cụ P có để lại di chúc ngày 26/02/2020 với nội dung định đoạt ½ phần tài sản chung của cụ P với cụ T cho ông Nguyễn Hoàng H được quyền sử dụng.

Về di sản:

Về nguồn gốc:

Các bên đương sự và UBND xã Thuần Mỹ xác định diện tích 2.316m2 thuộc thửa số 56, tờ bản đồ 09 (bản đồ 299), tọa lạc tại: Thôn 6, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội là do Nhà nước cấp cho vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P sử dụng vào năm 1971. Trên đất có nhà ở do các cụ xây dựng. Do vậy, xác định đây là tài sản chung của vợ chồng cụ T, cụ P.

Theo ông Việt, ông Bắc, quá trình quản lý, sử dụng đất cụ T, cụ P có chia thửa đất làm ba phần diện tích khác nhau cho ông Nguyễn Hoàng V một phần ở giữa, chia cho ông Nguyễn Hoàng BB một phần về phía ngoài giáp đất nông nghiệp. Khi chia đất chỉ thể hiện bằng lời nói và chỉ ranh giới ngoài thực địa. Sau khi ông Việt, ông Bắc được chia đất đã làm nhà ở. Ông Việt làm nhà năm 1990 ở được ba năm sau đó chuyển chỗ ở đi nơi khác; ông Nguyễn Hoàng BB làm nhà ở năm 1992 và sử dụng liên tục, ổn định cho đến nay, đã tạo khuôn viên riêng biệt có tường bao xung quanh, công trình phụ sinh hoạt và trồng cây trên đất. Thời điểm cụ T, cụ P chia đất thành 03 mảnh, ông Hùng đi công tác không có mặt tại địa phương, do vậy phần diện tích đất ông Bắc, ông Việt được chia, ông Bắc, ông Việt đã sử dụng và đã đăng ký kê khai theo sổ mục kê của chính quyền địa phương từ năm 1993, phần diện tích đất còn lại vẫn đứng tên cụ T, cụ P, các cụ đã sinh sống trên phần diện tích đất còn lại.

UBND xã Thuần Mỹ cung cấp:

Tại sổ mục kê đất đai đất thổ cư đồi, quyển 1 lập ngày 26/9/1993 trang 32 thể hiện thửa đất số 56 có ba người đứng tên: Nguyễn Hoàng T, diện tích 948m2¨; Nguyễn Hoàng V 600m2; Nguyễn Hoàng BB 768m2. Việc gia đình cụ T chia thửa đất số 56 làm ba phần mang tên ba người thì hiện không có hồ sơ lưu trữ. Tuy nhiên về nguyên tắc trên sổ sách lưu trữ thể hiện thì việc phân chia đó phải có sự thống nhất trước khi lập sổ. Thực tế sử dụng đất tại địa phương, vợ chồng ông Nguyễn Hoàng BB sử dụng một góc riêng tiếp giáp phần đất nông nghiệp, xung quanh có tường bao ranh giới, một phần đất có nhà ở của cụ T, cụ P sử dụng đến khi cụ T chết năm 2006, một phần ở giữa để trống không có công trình kiến trúc trên đất.

Qua xem xét thực tế thửa đất số 56 hiện do ông Bắc sử dụng phần sát mương nước; tiếp theo là đất trống do ông Việt quản lý; diện tích còn lại trên có nhà ở do cụ P quản lý.

Ngày 26/02/2020 cụ P có lập di chúc, nội dung di chúc thể hiện cụ P định đoạn phần tài sản chung của cụ P với cụ T là ½ tổng diện tích thửa đất 2.316m2 cụ thể 2.316m2: 2 = 1.158m2, phần diện tích đất 1.158m2 của cụ P sẽ để lại cho con trai Nguyễn Hoàng H được quyền quản lý sử dụng. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 26/5/2020 (sau ngày cụ P lập di chúc ngày 26/02/2020) cụ P xác định phần diện tích đất 2.316m2 đã được chia làm 03 thửa khoảng năm 1988, cụ P xác định phần tài sản của cụ và cụ T còn lại chỉ là phần đất có nhà ở 4 gian cấp 4 của hai cụ, quá trình sinh sống hai cụ đã chia cho hai con Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Hoàng BB mỗi người một phần.

Nhận thấy, ông Việt, ông Bắc có sử dụng đất trên thực tế và được ghi nhận tại sổ mục kê nhưng việc cụ T, cụ P phân chia đất cho ông Việt, ông Bắc không được lập thành văn bản. Quá trình sử dụng đất ông Bắc, ông Việt chưa hoàn thiện thủ tục tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, chưa có căn cứ để xác định cụ T, cụ P tặng cho ông Việt, ông Bắc quyền sử dụng đất hay tạm phân chia để sử dụng. Bản án sơ thẩm xác định di sản của cụ T, cụ P để lại là phần diện tích đất cụ P quản lý trước khi chết là chưa phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 100 Luật đất đai và Khoản 1 Điều 18 Nghị định 43/2014. Tuy nhiên, phía nguyên đơn không có kháng cáo về nội dung này nên HĐXX không xem xét.

Tại tờ bản đồ 09 bản đồ 299 đo vẽ năm 1987 thì diện tích thửa 56 thể hiện là 2.316m2. Cụ Nguyễn Hoàng T, diện tích 948m2; ông Nguyễn Hoàng V 600m2; ông Nguyễn Hoàng BB 768m2. Đo thực tế, diện tích đất ông Bắc quản lý là 1241,7m2; ông Việt quản lý là 632,4m2; diện tích đất còn lại là 1232,5m2.

UBND xã Thuần Mỹ, UBND huyện Ba Vì đều có quan điểm xác định: “Diện tích thực tế hiện nay là đúng số học, diện tích ghi trên tờ bản đồ 09 bản đồ 299 là tính toán sai và đều có quan điểm giao phần diện tích tăng thêm cho chủ sử dụng thửa đất 56 sử dụng và thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo luật đất đai”.

Đối với phần diện tích tăng thêm giáp ranh hộ ông Kiều Quang Quân, hai bên đã có tường bao ranh giới do hộ ông Quân xây dựng, hai bên không có tranh chấp, do vậy toàn bộ diện tích đất tăng thêm phần giáp ranh với hộ ông Quân, thuộc quyền quản lý về thửa đất số 56 phần tài sản của cụ T, cụ P. Sau khi trừ đi diện tích lấn ra mương nước và đường bê tông, diện tích ông Bắc quản lý là 1241,7m2- (227,5m2 + 35,1m2) = 979,1m2; diện tích ông Việt quản lý là 632,4m2 - 29,8m2 = 602,6m2; diện tích còn lại là 1.232,5m2- (21,4m2+2,7m2) = 1.208,4m2. Tổng diện tích thửa đất số 56 là 2790,1m2, bản án sơ thẩm xác định diện tích 2.753,2m2 là chưa chính xác.

Như vậy, tài sản chung của cụ T, cụ P là 1.208,4m2 đất tại thửa đất số 56 tờ bản đồ 09, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Tài sản là nhà ở cấp 4, mái lợp ngói đỏ, xây gạch chỉ tường 10 bổ trụ, nền nhà láng xi măng, xây dựng khoảng năm 1981 (đã sập mái dột nát) giá trị 0 đồng; 01 nhà ngang xây dựng khoảng năm 1994, lợp ngói đỏ, cửa gỗ giá trị 0 đồng; 01 bếp xây dựng năm 1994, mái lợp ngói đỏ giá trị 0 đồng; 01 giếng nước đường kính 1,1m, sâu khoảng 8m, giếng không cuốn tang.

Về giá quyền sử dụng đất thửa 56, Hội đồng định giá cấp sơ thẩm xác định giá theo khung giá Nhà nước do không có giao dịch chuyển nhượng là không đúng quy định. Cấp phúc thẩm đã tiến hành định giá lại, theo đó đất ở đơn giá là 1.112.000 đồng/m2; đất vườn đơn giá là 468.000 đồng/m2, giếng nước trị giá 8.800.000đ. Do đó sửa án sơ thẩm về giá trị tài sản.

Ngoài ra trên đất còn có một số cây trồng như cây mít, cây quất hồng bì, cây hồng xiêm nhưng các đương sự cùng thống nhất không yêu cầu giải quyết cây trồng do giá trị không đáng kể nên không xem xét.

Do giá trị quyền sử dụng đất ở và đất trồng cây có chênh lệch và được tính trên tổng diện tích cả thửa đất 56 trong đó có cả hai phần diện tích ông Nguyễn Hoàng V và Nguyễn Hoàng BB sử dụng. Vì vậy, cần phải tính toán quyền sử dụng đất ở 400m2 theo tỉ lệ tương ứng với diện tích đất trồng cây lâu năm trên cơ sở số liệu đo đạc hiện nay toàn thửa số 56 là 2.790,1m2; tỉ lệ đất ở trên tỉ lệ đất trồng cây lâu năm sẽ là 1m2 đất ở tương ứng với 5,975m2 đất trồng cây lâu năm. Trên cơ sở kết quả đo đạc xác định diện tích đất ông Nguyễn Hoàng BB là 979,1m2; ông Nguyễn Hoàng V sử dụng 602,6m2; phần đất còn lại của cụ T, cụ P là 1.208,4m2 thì diện tích đất ở tương ứng trên phần đất cụ T, cụ P là 173,25m2 x 1.112.000đ/m2 = 192.654.000đ; Đất trồng cây lâu năm = 1.208,4m2 – 173,25m 2 đất ở = 1.035,15m2 x 468.000đ/m2 = 484.450.200đ.

Giá trị tài sản chung của cụ T, cụ P gồm: Đất ở 192.654.000đ + đất trồng cây lâu năm 484.450.200đ + giếng nước 8.800.000đ = 685.904.200đ Tài sản chung của cụ T, cụ P có giá trị là 685.904.200đ Về công sức: Theo lời trình bày của ông Bắc và xác nhận của địa phương thì ông Bắc là người đóng thuế đất cho toàn bộ thửa đất số 56 từ năm 2006 đến nay nên trích một phần công sức cho ông Bắc. Tuy nhiên, ông Việt cũng sử dụng một phần diện tích đất nên ông Việt phải có trách nhiệm với ông Bắc nên công sức của ông Bắc về việc đóng thuế đất chỉ được xem xét đối với diện tích 1.208,4m2. Bản án sơ thẩm có xem xét đến việc ông Bắc có đóng thuế đất nhưng không trích công sức là chưa đảm bảo quyền lợi cho ông Bắc, nên cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bắc sửa án sơ thẩm về nội dung này. Trích công sức cho ông Bắc số tiền là 15.000.000đ. Tài sản chung của cụ T, cụ P còn lại là: 670.904.200đ Về chi phí mai táng, thực hiện thay nghĩa vụ của cụ T, cụ P để lại, các bên đương sự thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T, cụ P không có tranh chấp, không có yêu cầu gì, do vậy không xem xét.

Xét yêu cầu của ông Việt, ông Bắc, bà Phi, bà Tiện, bà Hòa cho rằng ngoài việc hai cụ T, cụ P đã chia đất cho hai con là ông Việt, ông Bắc thì cụ T còn nói nhà 4 gian cấp 4 chia cho mỗi người con trai một gian, các ông bà đều mong muốn thực hiện theo lời nói của cụ T để nhà đất làm nhà thờ chứ không chia di sản theo pháp luật, nhưng ông Việt, ông Bắc, bà Phi, bà Tiện, bà Hòa không xuất trình được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh, các ông bà xác nhận việc cụ T chỉ nói miệng, không có văn bản giấy tờ gì, nên không có căn cứ chấp nhận.

Chia tài sản chung của cụ T, cụ P: 670.904.200đ: 2 = 335.452.100đ cụ T chết không để lại di chúc, chia thừa kế của cụ T theo luật.

Mở thừa kế lần thứ nhất: Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Hoàng T gồm vợ là cụ Lỗ Thị P cùng 8 người con. Như vậy, mỗi kỷ phần thừa kế có giá trị là 335.452.100đ: 9 = 37.272.455đ.

Phần tài sản của cụ Lỗ Thị P được hưởng bao gồm phần tài sản chung được chia và kỷ phần thừa kế là 335.452.100đ + 37.272.455đ = 372.724.555đ.

Xét yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng H yêu cầu được hưởng phần tài sản theo di chúc của cụ P để lại cho ông. Nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 08/6/2020 cụ Lỗ Thị P chết, trước khi cụ P chết, cụ P có để lại di chúc ngày 26/02/2020, di chúc được lập tại Văn phòng Công ty luật Bách D và có xác nhận của Công ty luật Bách D.

Về hình thức, di chúc của cụ P là di chúc bằng văn bản, có 2 người làm chứng thời điểm lập di chúc cụ P hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, hoàn toàn tự nguyện và khẳng định nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình khi điểm chỉ vào di chúc. Những người làm chứng Nguyễn Thùy Linh và Phạm Hồng Ngọc đều có lời khai khẳng định việc cụ P ký và điểm chỉ vào Bản di chúc ngày 26/02/2020 khi hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, tự nguyện. Cụ nghe và trả lời đúng, đầy đủ tên cụ ông và các con. Di chúc được soạn theo đúng ý nguyện của cụ P.

Nội dung di chúc thể hiện ý chí của cụ P định đoạn phần tài sản chung của cụ P với cụ T là ½ tổng diện tích thửa đất sẽ để lại cho con trai Nguyễn Hoàng H được quyền quản lý sử dụng. Di chúc của cụ P phù hợp với quy định tại Điều 630, 631 BLDS. Việc cụ P định đoạn phần tài sản chung của cụ P với cụ T là ½ tổng diện tích thửa đất là phù hợp với quy định của pháp luật. Ngày 26/5/2020 cụ P trình bày: Đối với phần tài sản của tôi và di sản của tôi được hưởng, tôi xin giao lại cho anh Hùng toàn bộ để anh Hùng quản lý, sử dụng và lo hậu sự thờ cúng sau này.

Ngày 08/6/2020 cụ P chết, kể từ thời điểm cụ P cung cấp lời khai ngày 26/5/2020 đến khi chết cụ P không thay đổi những nội dung đã khai, do vậy phải xác định đây là di nguyện cuối cùng của cụ P về việc định đoạt tài sản của cụ. cụ P định đoạt toàn bộ phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình cho ông Nguyễn Hoàng H quản lý, sử dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bản án sơ thẩm giao cho ông Nguyễn Hoàng H quyền quản lý sử dụng phần tài sản của cụ P là có căn cứ. Theo đó, ông Hùng được hưởng toàn bộ di sản của cụ P có gía trị là 372.724.555đ.

Đối với yêu cầu của bà Phi, bà Tiện cho rằng trường hợp phải chia thừa kế theo pháp luật, thì quyền lợi kỷ phần thừa kế của bà Phi, bà Tiện được nhận thì bà Phi, bà Tiện giao lại cho ông Bắc, ông Việt sử dụng, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án ông Bắc, ông Việt không thể hiện quan điểm về việc đồng ý nhận, do vậy kỷ phần quyền lợi được hưởng di sản thừa kế của bà Phi, bà Tiện sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T mỗi người được hưởng 37.272.455đ.

Ông Bắc được hưởng 37.272.455đ + công sức 15.000.000đ = 52.272.455đ Ông Hùng được hưởng 372.724.555đ + 37.272.455đ = 409.997.010đ Chia hiện vật:

Nguyên đơn ông Hùng có nguyện vọng nhận toàn bộ di sản bằng hiện vật và thanh toán bằng giá trị đối với kỷ phần thừa kế của cụ T cho các thừa kế khác. Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu của ông Hùng, giao ông Hùng toàn bộ di sản là hiện vật. Bị đơn ông Việt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Bắc, bà Phi, bà Tiện, bà Hòa, bà Thuận, bà Tám kháng cáo đề nghị được nhận di sản bằng hiện vật.

Xét thấy, ông Nguyễn Hoàng H là con trai trưởng của cụ T, cụ P. Mặc dù trong gia đình anh em có bất hòa, tuy nhiên theo phong tục tập quán của địa phương, việc thờ cúng tổ tiên thuộc về trách nhiệm của con trai trưởng. Mặt khác, ông Hùng cũng là người chăm sóc cụ P từ đầu năm 2020 đến khi cụ P chết. Hiện ông Hùng sinh sống cùng vợ con tại xã Minh Quang, 7 anh chị em gồm các ông bà: Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Hoàng BB, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T đều có nơi ở ổn định, không ai có nhu cầu nhận đất thừa kế làm nơi ở. Ông Hùng có nguyện vọng nhận đất thừa kế của bố mẹ để làm nơi thực hiện nghĩa vụ thờ cúng của người con trai cả, do vậy bản án sơ thẩm giao toàn bộ tài sản là di sản thừa kế của cụ T, cụ P bằng hiện vật cho ông Hùng quản lý sử dụng, buộc ông Hùng có nghĩa vụ trả cho những người thừa kế khác kỷ phần mà họ được hưởng bằng giá trị là có căn cứ. Theo đó, ông Hùng phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Hoàng V mỗi người 37.272.455đ. Thanh toán cho ông Nguyễn Hoàng BB 52.272.455đ.

Xét yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng BB, trong quá trình giải quyết vụ án có yêu cầu ông Nguyễn Hoàng H bồi thường cho ông số tiền 100.000.000đ do ông Hùng phá cây cối ông Bắc trồng trên đất của hai cụ T, Phương sử dụng, nhưng ông Bắc không xuất trình được tài liệu chứng cứ để chứng minh, quá trình giải quyết vụ án hòa giải tại địa phương, ông Bắc đã được Tòa án giải thích quyền yêu cầu độc lập và nghĩa vụ, chứng minh thiệt hại và nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu bồi thường số tiền 100.000.000đ nhưng ông Bắc không thực hiện nên không xem xét.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Việt và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là, bà Phi, Hòa, Thuận, Tám, Tiện.

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bắc.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm, các đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại dự phí đã nộp.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Th được miễn toàn bộ án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH ngày 30/12/2016 do là người cao tuổi.

Bà Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB mỗi người phải chịu 1.863.622đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 2 Điều 308 BLTTDS sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2021/DS-ST ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 623, 649, 650, 651, 659, 660, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Khoản 15 Điều 3, Điều 95 Luật đất đai 2013 - Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Hoàng H về việc chia tài sản là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Hoàng T theo pháp luật.

Về diện, hàng thừa kế:

Cụ Nguyễn Hoàng T (chết ngày 18/12/2006), cụ Lỗ Thị P (chết ngày 08/6/2020), hai cụ có 8 người con gồm: Bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Th, ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2. Ngoài những người con trên, hai cụ không có con riêng, con nuôi nào khác.

Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Hoàng T gồm 9 người: Cụ Lỗ Thị P, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2.

Về di sản + Xác định tài sản chung của vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P là quyền sử dụng một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ, diện tích 1.208,4m2. Có giá trị là: 685.904.200đ + Công nhận sự tự nguyện của các đương sự không tính giá trị cây cối Trích công sức cho ông Bắc số tiền là 15.000.000đ Tài sản chung của hai cụ có giá trị là 670.904.200đ.

Chia tài sản chung của cụ T, cụ P: 670.904.200đ: 2 = 335.452.100đ cụ T chết không để lại di chúc, chia thừa kế của cụ T theo luật.

Mỗi kỷ phần thừa kế có giá trị là 335.452.100đ: 9 = 37.272.455đ.

Bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng V, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 mỗi người được nhận 37.272.455đ Nguyễn Hoàng BB được nhận 15.000.000đ tiền công sức, tổng giá trị ông Bắc được nhận là 52.272.455đ.

Phần tài sản của cụ Lỗ Thị P được hưởng bao gồm phần tài sản chung được chia và kỷ phần thừa kế là: 335.452.100đ + 37.272.455đ = 372.724.555đ.

Giao cho ông Nguyễn Hoàng H được hưởng toàn bộ di sản của cụ Lỗ Thị P có giá trị là 372.724.555đ. Kỷ phần thừa kế của ông Hùng đối với di sản của cụ T có giá trị là 37.272.455đ. Tổng giá trị ông Hùng được nhận là 409.997.010đ.

Chia hiện vật.

Giao ông Nguyễn Hoàng H được quản lý sử dụng toàn bộ phần diện tích đất, tài sản trên đất của vợ chồng cụ Nguyễn Hoàng T, Lỗ Thị P là một phần thửa đất số 56, tờ bản đồ 09 xã Thuần Mỹ, diện tích 1.208,4m2 có giá trị là 685.904.200đ. Thửa đất được giới hạn bởi các điểm 1, 34, 43, 21, 22,23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 33, 1. (có sơ đồ kèm theo bản án).

Buộc ông Nguyễn Hoàng H phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị Th, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Hoàng V, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 mỗi người 37.272.455đ; thanh toán cho ông Nguyễn Hoàng BB số tiền là 52.272.455đ.

Ông Nguyễn Hoàng H có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký, kê khai, cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất theo quy định của pháp luật.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Th, Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 mỗi người được nhận lại 300.000đ dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số: 0059901; 0059902; 0059903; 0059904; 0059905; 0059906; 0059907 ngày 17/12/2021 của Chi cục thi hành án huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn toàn bộ án phí cho các ông bà gồm: Ông Nguyễn Hoàng H, bà Nguyễn Thị P, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Th Ông Nguyễn Hoàng V, ông Nguyễn Hoàng BB, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T2 mỗi người phải chịu 1.863.622đ án phí dân sự.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 258/2022/DS-PT

Số hiệu:258/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về