TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-PT NGÀY 24/01/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU KHI LY HÔN
Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh D xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 17/2021/TLPT- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”.
Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 19/2020/HNGĐ-ST, ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh D bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXPT-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Dương Văn Ph, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu phố Bến Lớn, thị trấn L, huyện B, tỉnh D. (Có mặt).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Dương Văn Ph: Ông Đậu Văn C, sinh năm 1988; địa chỉ: Ấp Hố Muôn, xã Long Nguyên, huyện B, tỉnh D (theo văn bản ủy quyền ngày 17/11/2020). (Có mặt).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Duy L, sinh năm 1977; đăng ký hộ khẩu: Khu phố Xà Mách, thị trấn L, huyện B, tỉnh D; địa chỉ tạm trú: Số 233/55, Tổ 3, Khu phố 8, phường Phú Hòa, thành phố T, tỉnh D.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L: Ông Phan Minh T, sinh năm 1999; địa chỉ: Số 133 đường Lê Lợi, phường Hòa Phú, thành phố T, tỉnh D là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Duy L (theo văn bản ủy quyền ngày 17/7/2020). (Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, Luật sư Công ty luật TNHH MTV V - Chi nhánh D thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Ngô Thị Th, sinh năm 1979;
địa chỉ: Khu phố Bến Lớn, thị trấn L, huyện B, tỉnh D.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Th: Ông Đậu Văn C, sinh năm 1988; địa chỉ: Ấp Hố Muôn, xã Long Nguyên, huyện B, tỉnh D. (Có mặt).
4. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố Cây Sắn, thị trấn L, huyện B, tỉnh D (Có đơn xin vắng mặt).
5. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
Nguyên đơn trình bày: Ông Dương Văn Ph và bà Nguyễn Thị Duy L tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B (nay là huyện B), tỉnh D năm 2004. Do vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng không thể tiếp tục sống chung với nhau nên đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 170/2016/HNGD-ST ngày 08/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh D. Quá trình chung sống, giữa ông Ph và bà L không tạo lập được tài sản chung nào. Ngày 18/02/2014, mẹ ông Ph cùng với các anh chị em của ông Ph đã lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế do ông Dương Văn B (cha ông Ph) để lại là phần diện tích đất 18.737m2, thửa số 383, tờ bản đồ số 19, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D, trong đó phần đất ông Ph được phân chia là 5112,2m2. Sau khi được phân chia, ông Ph đã làm thủ tục và đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT 322565, số vào sổ CH06646 ngày 04/6/2014 diện tích 5112,2m2, thuộc thửa số 780, tờ bản đồ số 19, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D.
Ngày 20/02/2014, ông Ph đã ký giấy đặt cọc để chuyển nhượng toàn bộ diện tích 5112,2m2 cho bà Nguyễn Thị G và đã nhận tiền cọc 100.000.000đồng của bà G để lấy tiền nhận chuyển nhượng phần đất 1226m2, thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D và 01 căn nhà cấp 4 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông (phần nhà đất đang tranh chấp) của ông Lê Minh Nh và bà Trần Thế Dạ Ch vào năm 2014 với giá theo hợp đồng chuyển nhượng là 70.000.000đồng.
Do nguồn tiền để nhận chuyển nhượng diện tích đất 1226m2, thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D và 01 căn nhà cấp 4 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông là do ông Ph đã ký đặt cọc chuyển nhượng phần đất ông được thừa kế riêng cho bà Nguyễn Thị G nên đây là tài sản riêng của ông Ph, hiện ông Ph và vợ ông là bà Ngô Thị Th đang trực tiếp quản lý sử dụng. Do ông Ph muốn lập thủ tục thế chấp để vay vốn ngân hàng đối với nhà đất nêu trên nhưng phần đất trên được cấp trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Ph và bà L nên bà L phải ký tên ông Ph mới làm thủ tục được, đã nhiều lần ông Ph nói với bà L ký thủ tục nhưng bà L không hợp tác. Do đó, ông Ph phải khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất diện tích 1226m2, theo đo đạc thực tế là 1211,4m2 (diện tích thuộc HLATĐB 86,4m2, diện tích còn lại 1125m2), thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 diện tích theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông là tài sản riêng của ông Ph.
Nguyên đơn cung cấp các tài liệu, chứng cứ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 (bản chứng thực); Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 170/2016/HNGD-ST ngày 08/12/2016 (bản phô tô); giấy đặt cọc chuyển nhượng ngày 20/02/2014 (bản phô tô); Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/3/2014; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20/6/2014 (bản chứng thực); Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày 18/02/2014 (bản chứng thực); Bản tự khai của ông Ph (bản chính);
Bản tự khai của ông Đậu Văn C (bản chính); Giấy ủy quyền (bản chính).
Bị đơn trình bày: Ông Dương Văn Ph và bà Nguyễn Thị Duy L sống chung với nhau năm 1999 và đăng ký kết hôn năm 2004 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B (nay là huyện B), tỉnh D nhưng đã ly hôn vào năm 2016. Quá trình chung sống, ông Ph và bà L tạo lập được phần đất diện tích 1226m2, thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 có kết cấu mái tole, vách tường, nền gạch bông, căn nhà này đã có sẵn khi mua phần đất diện tích 1226m2. Do ông Ph và bà L đã ly hôn nên nhà đất trên hiện ông Ph là người đang quản lý, sử dụng. Toàn bộ tài sản trên là tài sản chung của ông Ph và bà L đã tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân nên việc ông Ph yêu cầu Tòa án xác định nhà đất trên là tài sản riêng của ông Ph thì bà L không đồng ý, bà L yêu cầu phản tố là yêu cầu được chia đôi tài sản nêu trên, yêu cầu được nhận bằng giá trị và đồng ý để ông D nhận bằng hiện vật.
Bị đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ: Bản tự khai của ông Phan Minh T ngày 29/7/2020 (bản chính); giấy ủy quyền ngày 17/7/2020 (bản chính); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Phương ngày 27/5/2014 (bản phô tô).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Ngô Thị Th) trình bày: Bà Th là vợ của ông Dương Văn Ph. Bà Th thống nhất với phần trình bày và yêu cầu của ông Ph nên bà Th không có ý kiến gì thêm.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị G trình bày: Năm 2014 (không nhớ rõ ngày, tháng), bà G nghe ông Dương Văn Ph có nhu cầu bán đất, bà G hỏi thì ông Ph nói bán phần đất mà ông Ph được thừa kế của cha ông Ph để lại diện tích 5112,2m2, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D; khi đó phần đất này ông Ph chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhưng do có nhu cầu mua nên bà G và ông Ph đã thống nhất chuyển nhượng phần đất trên với giá 300.000.000đồng. Lúc đầu bà G và ông Ph ký giấy tay đặt cọc (do đã lâu nên chỉ biết năm 2014 chứ không nhớ cụ thể ngày tháng), bà G đặt cọc trước cho ông Ph 100.000.000 đồng, số tiền còn lại 200.000.000 đồng sẽ thanh toán lúc hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng. Khoảng 4 đến 5 tháng sau kể từ thời điểm ký giấy đặt cọc ông Ph mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên mới ký hợp đồng chuyển nhượng. Tại thời điểm hai bên ký giấy đặt cọc và ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ có mặt ông Ph chứ không có mặt bà L. Sau đó, bà G làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện phần đất này bà G cũng đã chuyển nhượng cho người khác. Việc ông Ph bán phần đất trên để lấy tiền sử dụng vào mục đích gì thì bà không rõ và bà cũng không nắm được nguồn tiền để ông Ph nhận chuyển nhượng nhà đất diện tích 1226m2, thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH 06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 nên việc tranh chấp giữa ông Ph và bà L thì bà G không có ý kiến.
- Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 30/2021/HNGĐ-ST ngày 23/4/2021 Tòa án nhân dân thành phố T đã tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Văn Ph đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L về việc “Tranh chấp tài sản sau khi ly hôn”.
Xác định phần đất diện tích 1226m2 theo đo đạc thực tế là 1211,4m2 (diện tích thuộc HLATĐB 86,4m2, diện tích còn lại 1125m2) thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã (nay là thị trấn) L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 diện tích theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông là tài sản riêng của ông Dương Văn Ph.
(Có bản vẽ kèm theo) Ông Ph có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên theo bản án của Tòa án.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L với nguyên đơn ông Dương Văn Ph về việc chia đôi diện tích 1226m2 theo đo đạc thực tế là 1211,4m2 (diện tích thuộc HLATĐB 86,4m2, diện tích còn lại 1125m2) thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã (nay là thị trấn) L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 diện tích theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông.
Ngoài ra Bản án còn quyết định về nghĩa vụ nộp chi phí tố tụng, án phí và tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 04/5/2021 bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L có đơn kháng cáo toàn bộ quyết định của Bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố và nội dung đơn kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án và đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Biên bản lấy lời khai của bà L tại Tòa án B là không phù hợp vì bà L không được đọc; giấy đặt cọc không có giá trị pháp lý vì thời điểm làm giấy chưa thành lập huyện B. Tiền mua nhà đất của ông Nh, bà Ch là tiền chung của bà L, ông Ph. Vì vậy đề nghị chia cho bà L được hưởng 50% nhà đất nêu trên và chia bằng hiện vật.
Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về tố tụng Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự tố tụng.
Về nội dung: Ông Ph yêu cầu công nhận diện tích 1211,4m2 thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại thị trấn L, huyện B, tỉnh D trên có căn nhà cấp 4 là tài sản riêng của ông Ph là không có cơ sở. Bởi lẽ, tài sản trên hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Ph và bà L còn tồn tại. Tiền để mua nhà đất nêu trên không phải là tiền riêng của ông Ph do được thừa kế đất của cha, mẹ mà là tiền chung của ông Ph, bà L. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chia nhà đất nêu trên cho ông Ph và bà L và chia bằng hiện vật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L thực hiện đúng quy định tại các Điều 271, 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất có diện tích 1226m2, theo đo đạc thực tế là 1211,4m2 thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại thị trấn L, huyện B, tỉnh D và căn nhà cấp 4 gắn liền với đất diện tích theo đo đạc thực tế 100m2, có kết cấu mái tole, vách tường, nền gạch bông là tài sản riêng của nguyên đơn; bị đơn có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu chia tài sản nêu trên vì cho rằng đây là tài sản chung của nguyên đơn và bị đơn trong thời kỳ hôn nhân. Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án cần giải quyết là “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Tài sản tranh chấp là nhà, đất hình thành trong năm 2014, do đó Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn để giải quyết là phù hợp.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn (ông Dương Văn Ph) và bị đơn (bà Nguyễn Thị Duy L) trước đây là vợ chồng và có 01 con chung tên Dương Thị Tuyết V, sinh ngày 16/12/2006. Ngày 08/12/2016, ông Ph và bà L ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 170/2016/QĐST- HNGĐ của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh D. Khi ly hôn, con chung thì ông Ph trực tiếp nuôi cháu V; bà L cấp dưỡng mỗi tháng 800.000 đồng; đối với tài sản chung, nợ chung cả hai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.
[3] Ngày 04/02/2020, ông Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận phần đất diện tích 1226m2, theo đo đạc thực tế 1.211,4m2 (trong đó có 86,4m2 diện tích thuộc HLATĐB) thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại thị trấn L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ) số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 gắn liền với đất theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông là tài sản riêng của ông Ph.
Bị đơn bà L có đơn phản tố yêu cầu chia đôi tài sản nêu trên vì cho rằng đây là sản chung của bà L, ông Ph hình thành trong thời kỳ hôn nhân chưa chia, bị đơn yêu cầu được nhận bằng hiện vật.
[4] Nguyên đơn cho rằng: Nhà, đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc: Ngày 18/02/2014 ông Ph được chia thừa kế đối với phần diện tích 5.112,2m2 do cha ông Ph để lại. Sau đó, ngày 20/02/2014 ông Ph đã ký “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” chuyển nhượng phần đất trên cho bà Nguyễn Thị G với giá 300.000.000 đồng, ông Ph nhận cọc trước 100.000.000 đồng ngay trong ngày ký giấy đặt cọc. Đến ngày 25/3/2014, ông Ph dùng 70.000.000 đồng tiền nhận đặt cọc của bà G để ký hợp đồng để nhận chuyển nhượng phần diện tích 1.226m2 trên có căn nhà cấp 4 (là nhà, đất tranh chấp) của ông Nh và bà Ch. Đến ngày 27/5/2014 ông Ph được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhà đất này. Về phía bị đơn cho rằng: Số tiền mua nhà, đất của vợ chồng ông Nh, bà Ch là tiền chung của bà L và ông Ph trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại. Vì vậy, yêu cầu chia nhà đất trên cho bà L.
Xét thấy, việc ông Ph có ký hợp đồng nhận chuyển nhượng nhà đất của ông Nh, bà Ch vào ngày 25/3/2014 với số tiền 70.000.000 đồng là có thật. Tuy nhiên, nguồn tiền để nhận chuyển nhượng nhà, đất này không phải tiền ông Ph nhận tiền đặt cọc của bà G, bởi lẽ “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” ngày 20/02/2014 mà ông Ph dùng làm chứng cứ để chứng minh nguồn gốc tiền mua nhà đất có nhiều điểm không phù hợp. Cụ thể: Giấy đặt cọc thể hiện ông Ph và bà G có địa chỉ cư ngụ tại huyện B, tỉnh D là không đúng, bởi vì ngày 29/3/2014 thì huyện B mới làm lễ công bố thành lập. Mặt khác, Văn bản phân chia thừa kế ngày 18/02/2014 (BL 86), Giấy ủy quyền ngày 18/02/2014 (BL 82), Hợp đồng CNQSDĐ giửa ông Ph và vợ chồng ông Nh, bà Ch ngày 25/3/2014 (BL 283) thì ông Phương đều ghi địa chỉ cư ngụ là huyện B. Do vậy “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” ghi địa chỉ ông Ph cũng như bà Gái cư ngụ vào thời điểm 20/02/2014 ở huyện B là không đúng (vì chưa có huyện B ở thời điểm này). Tòa án sơ thẩm căn cứ Nghị quyết 136/NQ-CP ngày 29/12/2013 của Chính phủ để cho rằng ông Ph ghi địa chỉ cư ngụ huyện B là phù hợp là không có cơ sở. Trong “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” thể hiện ông Ph chuyển nhượng cho bà G thửa đất 780, tờ bản đồ số 19, diện tích 5.112m2. Điều này là không hợp lý vì: Tại thời điểm ngày 20/02/2014 thì ông Ph chưa làm thủ tục để được cấp GCNQSDĐ, vì vậy không thể nào ông Ph biết được thửa đất chuyển nhượng cho bà G là thửa đất 780, tờ bản đồ số 19 có diện tích 5.112m2 để ghi vào giấy đặt cọc. Trong “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” thể hiện số tiền chuyển nhượng đất là 300.000.000 đồng, đặt cọc 100.000.000 đồng vào ngày 20/02/2014, nhưng trong giấy đặt cọc này không thể hiện được việc bà G đã giao số tiền đặt cọc cho ông Ph chưa? Ông Ph đã nhận đủ số tiền đặt cọc chưa? Cả ông Ph và bà G đều không đưa ra được chứng cứ có việc giao, nhận tiền đặt cọc vào ngày 20/02/2014. Mặt khác trong Hợp đồng CNQSDĐ ngày 20/6/2014 (BL 108) giữa ông Ph và bà G thì lại xác định số tiền chuyển nhượng đất là 300.000.000 đồng và đưa một lần ngay sau khi hợp đồng chuyển nhượng đất được công chứng (ngày 20/6/2014). Như vậy nếu bà G nhận chuyển nhượng đất với giá 300.000.000 đồng, đặt cọc trước 100.000.000 đồng thì trong hợp đồng phải thể hiện bà G chỉ còn nghĩa vụ thành toán số tiền còn lại là 200.000.000 đồng, nhưng ở đây thể hiện bà G có nghĩa vụ thanh toán 300.000.000 đồng ngay sau khi hợp đồng được công chứng là không phù hợp với nội dung Giấy đặt cọc.
Từ những phân tích nêu trên có đủ cơ sở khẳng định: “Giấy đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ” ngày 20/02/2014 là có sự giả tạo. Việc ông Ph dùng giấy đặt cọc trên làm chứng cứ để chứng minh nguồn tiền để nhận chuyển nhượng nhà, đất của ông Nh, bà Ch là không có giá trị pháp lý. Tại phiên tòa, ông Ph không có chứng cứ gì khác chứng minh nguồn tiền để nhận chuyển nhượng nhà, đất của ông Nh, bà Ch là tiền riêng của cá nhân ông Ph. Do đó nhà, đất tranh chấp nêu trên là tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Ph và bà L còn tồn tại, theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng”, do đó nhà đất tranh chấp là tài sản chung của ông Ph, bà L.
Xét công sức đóng góp tạo lập tài sản: Theo ông Ph thì bà L không có đóng góp gì trong việc tạo lập tài sản tranh chấp. Về phía bà L thì cho rằng đó là tài sản chung do cả ông Ph và bà L cùng tạo lập nên. Tuy nhiên như trên đã phân tích thì ý kiến của ông Ph cho rằng tài sản tranh chấp được tạo lập do tiền chuyển nhượng đất mà ông Ph được thừa kế riêng là không có cơ sở. Biên bản lấy lời khai ngày 20/5/2020 (BL 48) tại Tòa án huyện B, bà L đã khai: “Mẹ ông Ph cho tôi và anh Ph phần đất khoảng 6.000m2 đất trồng cây điều, sau đó hai vợ chồng trồng cao su, sau đó ông Ph ra sổ và bán đất và cao su lấy tiền mua lại phần đất hiện nay ông Ph đang ở” và “tôi có ở trên phần đất này khoảng 1 đến 2 tháng, khi mua đất có nhà và cây cao su”, “tiền mua đất là tiền ông Ph bán đất của mẹ ông Ph cho để mua phần đất này, tôi và ông Ph làm không có tiền dư..”. Như vậy, bà L có xác nhận có cùng ông Ph sử dụng, canh tác đất cha mẹ ông Ph cho và sau đó mua nhà, đất tranh chấp thì bà L cũng có quản lý sử dụng. Tuy nhiên về công sức tạo lập tài sản này thì ông Ph có công sức nhiều hơn khi bà L thừa nhận tiền mua nhà, đất là phần lớn từ tiền bán đất của cha mẹ ông Ph cho để mua, ông Ph là người trực tiếp thực hiện chuyển nhượng nhà, đất. Ngoài ra, ông Ph cũng là người trực tiếp quản lý, gìn giữ nhà đất này từ năm 2014 cho đến nay. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cần tính “Công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung”, Hội đồng xét xử xác định ông Ph được chia 60% giá trị nhà đất tranh chấp, bà L được chia 40% giá trị nhà đất tranh chấp.
Theo Biên bản định giá tài sản ngày 01/12/2021 thì diện tích 100m2 đất thổ cư có giá: 1.000.000 đồng/m2 =100.000.000 đồng; diện tích 1111,4m2 đất cây lâu năm có giá 500.000đồng/ m2 = 556.771.000 đồng; diện tích 100m2 nhà có giá 3.080.000 đồng/m2 (giá trị sử dụng còn lại: 30%) = 308.000.000 đồng; giá trị tài sản cây lâu năm trên đất là:1.071.000đồng. Tổng giá trị tài sản tranh chấp:
965.842.000 đồng. Ông Ph được chia 60% tương ứng: 579.502.200đồng; bà L được chia 40% tương ứng: 386.339.800 đồng.
Xét yêu cầu chia hiện vật của bà L: Theo đơn phản tố ngày 23/11/2020 (BL154) bà L yêu cầu được chia đôi tài sản tranh chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bà L yêu cầu chia bằng hiện vật. Xét thấy, theo Quyết định số 25/QĐ-UB ngày 27/9/2017 của UBND tỉnh D thì diện tích đất tranh chấp đủ điều kiện tách thửa. Vì vậy, có đủ điều kiện chia bằng hiện vật cho ông Ph, bà L. Căn cứ trích đo địa chính do VPĐKĐĐ huyện B lập ngày 28/9/2020; Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/12/2021 có đủ điều kiện chia bằng hiện vật cho ông Ph, bà L. Tuy nhiên đối với diện tích đất thổ cư thì không đủ điều kiện để tách thành 02 thửa nên giao toàn bộ diện tích đất thổ cư cho ông Ph sử dụng. Vì vậy, chia cho ông Ph diện tích đất 757,1m2 (trong đó có 100m2 thổ cư và 657,1m2 đất cây lâu năm), trên đất có căn nhà cấp 4 và các công trình phụ, cây lâu năm gắn liền với đất; tổng giá trị hiện vật ông Ph được nhận là:
737.462.000 đồng; chia cho bà L diện tích đất 454,3m2 (trong đó có 35m đất HLBVĐB) có giá trị 227.150.000 đồng trên đất có các cây trồng lâu năm là 01 cây mai, 02 cây ổi, 01 cây mãng cầu, 10 cây chuối, 01 cây cóc và 01 cây chanh; tổng giá trị hiện vật bà L được nhận là: 228.380.000 đồng. Do giá trị hiện vật ông Ph được nhận cao hơn 60% giá trị tài sản mà ông Ph được chia do đó ông Ph có nghĩa vụ thanh toán giá trị chênh lệnh cho bà L là 157.959.800 đồng.
[5] Đối với mái che tôn, cột sắt do ông Ph tự lắp đặt trên phần đất chia cho bà L thì ông Ph phải tự tháo dỡ.
Kháng cáo của bị đơn là có căn cứ chấp nhận. Vì vậy cần sửa án sơ thẩm: Chia tài sản tranh chấp cho nguyên đơn và bị đơn cho phù hợp với pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là phù hợp nên được chấp nhận.
Án phí sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo luật định.
Án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo không phải nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Duy L
2. Sửa Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 30/2021/HNGĐ-ST ngày 23/4/2021 Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D như sau:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn Ph đối với bà Nguyễn Thị Duy L về việc “Tranh chấp tài sản sau khi ly hôn”.
Xác định phần đất diện tích theo đo đạc thực tế là 1.211,4m2 (diện tích thuộc HLATĐB 86,4m2, diện tích còn lại 1.125m2) thuộc thửa số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã (nay là thị trấn) L, huyện B, tỉnh D, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT322087, số vào sổ CH06575 do UBND huyện B cấp cho ông Dương Văn Ph ngày 27/5/2014 cùng với căn nhà cấp 4 diện tích theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông là tài sản chung của ông Dương Văn Ph và bà Nguyễn Thị Duy L.
2.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Duy L đối với ông Dương Văn Ph về việc chia diện tích theo đo đạc thực tế 1.211,4m2 nêu trên và căn nhà cấp 4 diện tích theo đo đạc thực tế 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông.
2.3 Chia tài sản chung là nhà và đất cho ông Ph, bà L như sau:
- Chia cho ông Ph diện tích đất 757,1m2 thuộc một phần thửa đất số 493, tờ bản đồ số 13; trên đất có 01 căn nhà cấp 4 có diện tích: 100m2 có kết cấu mái tôn, vách tường, nền gạch bông; cùng các cây trồng trên đất gồm 04 cây mai tại khu phố Bến Lớn, thị trấn L, huyện B, tỉnh D. Tổng giá trị ông Ph được chia là: 737.462.000 (bảy tram ba mươi bảy triệu bốn trăm sáu mươi hai nghìn) đồng.
- Chia cho bà L diện tích đất 454,3m2 thuộc một phần thửa đất số 493, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại khu phố Bến Lớn, thị trấn L, huyện B, tỉnh D, trên đất có 01 cây mai, 02 cây ổi, 01 cây mãng cầu, 10 cây chuối, 01 cây cóc và 01 cây chanh. Có tổng giá trị là: 228.380.000 (hai trăm hai mươi tám triệu ba trăm tám mươi nghìn) đồng.
Ông Ph, bà L có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên theo Quyết định của Bản án.
(Có bản vẽ kèm theo) Buộc ông Dương Văn Ph phải tháo dỡ phần mái che tôn, cột sắt trên phần đất giao cho bà Nguyễn Thị Duy L sử dụng.
Buộc ông Dương Văn Ph phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị Duy L số tiến 157.959.800 (một trăm năm mươi bảy triệu chín trăm năm mươi chín nghìn tám trăm) đồng.
Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Duy L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Dương Văn Ph chậm thanh toán số tiền trên, thì ông Phương còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
3. Về chi phí xem xét, thẩm định và bản vẽ: Số tiền 3.123.000 (ba triệu một trăm hai mươi ba nghìn) đồng, ông Ph, bà L mỗi người nộp ½. Do ông Ph đã nộp nên buộc bà Nguyễn Thị Duy L phải hoàn trả cho ông Ph 1.561.500 (một triệu năm trăm sáu mươi mốt nghìn năm trăm) đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Dương Văn Ph phải nộp số tiền 28.975.100 (hai mươi tám triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn một trăm) đồng được khấu trừ vào số tiền 7.500.000 (bảy triệu năm trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo Biên lai thu tiền số AA/2016 - 0021428 ngày 14/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Ông Ph còn phải nộp số tiền 21.475.100 (hai mươi mốt triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn một trăm) đồng.
- Bà Nguyễn Thị Duy L phải nộp số tiền 19.136.800 (mười chín triệu một trăm ba mươi sáu nghìn tám trăm) đồng và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.500.000đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2016 - 0050887 ngày 08/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T. Bà Nguyễn Thị Duy L còn phải nộp thêm số tiền là 16.636.800 đồng.
5. Về án phí phúc thẩm: Bà L không phải nộp. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T hoàn trả cho bà L số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo Biên lai thu số AA/2016/0051433 ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh D.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (24/01/2022).
Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 02/2022/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 02/2022/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về