Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 13/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM THAO, TNH PHÚ TH

BẢN ÁN 13/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 24/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 54/2021/TLST-DS ngày 13 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐST - DS ngày 31 tháng 8 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐST-DS ngày 16 tháng 9 năm 2021; thông báo về việc mở lại phiên tòa số 07/2021/TB-TA ngày 17/9/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Vũ Thị H; sinh năm: 1957; ĐKHKTT: Khu 7, thị trấn H, huyện L, tỉnh Phú Thọ (có mặt);

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:

Bà Hà Thị Lan H, sinh năm 1986 - trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh T; sinh năm: 1969 và chị Nguyễn Thị Thúy H; sinh năm 1971 đều có địa chỉ tại: Khu 5, thị trấn H, huyện L, tỉnh Phú Thọ (Anh Thao, chị H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa phía nguyên đơn là bà Vũ Thị H trình bày:

Năm 2009, bà và ông Triệu Văn Niên ly hôn. Tại bản án số 02/2009/DS-ST ngày 23/4/2009, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao đã giao cho ông Triệu Văn Niên một phần thửa đất chung có diện tích là 988m2. Năm 2012, ông Triệu Văn Niên đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy Hường. Anh Nguyễn Mạnh T, chị Nguyễn Thị Thúy Hường trở thành hàng xóm của bà.

Ngày 16/4/ 2012, do mẹ bà chết, bà về quê ở xã Thụy Vân, thành phố Việt Trì nên không có ở nhà. Bà đi vắng 03 ngày đến ngày thứ 4 bà về thì thấy hiện trạng cây trồng bị phá hoại gồm: 02 cây mít, 02 cây bưởi, 02 cây vải, 4 cây gấc, 2 cây chanh, dặng bạch đàn gồm 02 cây bạch đàn to và 03 cây bạch đàn làm quá giang nhà, 04 bụi tre. Theo bà thì thiệt hại trên là do vợ chồng anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H thuê máy múc đến phá hoại của bà. Sau khi về bà đã trình báo sự việc trên cho UBND thị trấn Hùng Sơn, công an thị trấn Hùng Sơn nhung UBND thị trấn Hùng Sơn và công an thị trấn Hùng Sơn không đến giải quyết vì cho rằng đó là đất của anh T, chị H. Thời điểm sự việc xảy ra do bà không ở nhà nên cũng không biết rõ tình hình cụ thể như thế nào. Nhưng bà cho rằng đó là hành vi chặt phá cây cối là do chị H và anh T làm.

Về tài liệu, chứng cứ chứng minh cho hành vi nói trên của chị H, anh T, bà H xác định bà không có tài liệu chứng cứ gì, cũng xác định không có ai chứng kiến sự việc đó nên bà không có tài liệu, chứng cứ gì cung cấp cho Tòa án để chứng minh việc anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H chặt phá cây cối của bà.

Nay bà khởi kiện đề nghị anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H phải bồi thường thiệt hại đối với cây trồng nói trên cho bà với trị giá là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Ngoài ra, bà không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Phía người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là bà Hà Thị Lan H trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của bà Vũ Thị H, tại phiên tòa bà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trên cơ sở của pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Vũ Thị H. Buộc vợ chồng anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H phải bồi thường thiệt hại về tài sản là cây cối cho bà Vũ Thị H với số tiền là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).

Phía bị đơn là anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai đã thể hiện quan điểm như sau:

Năm 2009, vợ chồng anh, chị có nhận chuyển nhượng của ông Triệu Văn Niên thửa đất tại khu 7, thị trấn Hùng Sơn, huyện L, tỉnh Phú Thọ với diện tích 988m2, thửa đất đó có giáp với thửa đất của bà Vũ Thị H. Vợ chồng anh, chị có mời chính quyền địa phương đến để xác định rõ mốc giới để gia đình anh, chị xây dựng tường rào bao quanh. Sau đó, gia đình anh, chị đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Mạnh T và Nguyễn Thị Thúy H. Năm 2020, vợ chồng anh, chị cũng đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên cho người khác.

Nay bà Vũ Thị H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc anh, chị phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), anh, chị hoàn toàn không nhất trí bởi lẽ gia đình anh, chị đã sử dụng mảnh đất trên ổn định, không lấn chiếm hay chặt phá cây trồng của ai, đặc biệt là hộ bà Vũ Thị H. Anh T, chị H khẳng định không xâm phạm đến quyền, lợi ích của ai nên anh không nhất trí yêu cầu khởi kiện nói trên của bà H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án:

Áp dụng: Điều 584, Điều 589 của Bộ luật dân sự. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H đối với anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H.

Về án phí: Điều 147; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Vũ Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa. Tòa án nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án về “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị H. Bị đơn là anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H nên căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện, phạm vi khởi kiện của nguyên đơn trên cơ sở căn cứ vào bản tự khai của các đương sự, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập được. Hội đồng xét xử xét thấy:

Năm 2004, bà Vũ Thị H và ông Triệu Văn Niên được UBND huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1890m2, thửa đất số 449, tờ bản đồ số 48. Năm 2009, bà và ông Triệu Văn Niên ly hôn, tại bản án số 02/2009/DS-ST ngày 23/4/2009, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao đã giao cho bà H được quản lý sử dụng 888m2 đất (Trong đó có 200m2 đất ở và 688m2 đất vườn), ông Triệu Văn Niên được quản lý sử dụng 988m2 đất (Trong đó có 200m2 đất ở và 788m2 đất vườn). Năm 2012, ông Triệu Văn Niên đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H. Anh T, chị H trở thành hàng xóm của bà Vũ Thị H.

Năm 2013, bà H đã khởi kiện vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H vì cho rằng anh T, chị H có lấn chiếm đất của bà, bà không đề nghị Tòa án giải quyết vấn đề gây thiệt hại về cây cối đối với anh T, chị H. Tại bản án số 09/2013/DS-ST ngày 29/8/2013 Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H, bản án trên đã có hiệu lực pháp luật. Việc bà Vũ Thị H khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao buộc vợ chồng anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H phải bồi thường cho bà số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) vì cho rằng năm 2012, khi bà đi vắng anh T, chị H có hành vi chặt phá cây cối cụ thể là 02 cây mít, 02 cây bưởi, 02 cây vải, 4 cây gấc, 2 cây chanh, dặng bạch đàn gồm 02 cây bạch đàn to và 03 cây bạch đàn làm quá giang nhà, 04 bụi tre gây thiệt hại về tài sản cho bà nên bà đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao buộc anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H phải bồi thường cho bà số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Phía bị đơn là anh T và chị H không nhất trí vì cho rằng anh, chị không có hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích của ai.

Xét thấy, khi khởi kiện phía nguyên đơn là bà Vũ Thị H không đưa ra được tài liệu chứng cứ gì chứng minh quyền lợi của mình bị anh T, chị H xâm phạm. Bởi lẽ, bản thân bà H cũng thừa nhận tại thời điểm năm 2012 khi sự việc xảy ra do bà không ở nhà nên cũng không biết rõ như thế nào, cũng không ai là người chứng kiến sự việc đó nên bà không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh anh T, chị H thực hiện hành vi chặt phá cây cối của bà. Sau khi về nhà, bà H đã có đơn trình báo đến công an thị trấn Hùng Sơn, UBND thị trấn Hùng Sơn về hành vi chặt phá cây của chị H, anh T. Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ tại công an huyện Lâm Thao và công an thị trấn Hùng Sơn. Công an huyện Lâm Thao và công an thị trấn Hùng Sơn đều xác định theo không có đơn trình báo nào của bà H về hành vi chặt phá cây cối nhà bà của anh T, chị H. Bên cạnh đó, qua xác minh tại UBND thị trấn Hùng Sơn UBND thị trấn Hùng Sơn xác định năm 2012, chính quyền địa phương có nhận được đơn của bà Vũ Thị H trình báo về hành vi chặt phá cây cối của anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H chặt phá cây trồng và cây lấy củi trên đất của bà. Địa phương đã tiến hành xác minh sự việc trên nhưng không có cơ sở xác định việc anh T, chị H có hành vi chặt phá cây cối và cây lấy củi của bà H. Năm 2012, anh T, chị H có thuê máy múc để san đất trên diện tích đất của anh, chị để trồng cây cối trên thửa đất giáp với thửa đất của bà H chứ không phải múc đất và chặt phá cây của bà H như bà H đã khai báo nên UBND thị trấn Hùng Sơn không có cơ sở để giải quyết đơn của bà H. Như vậy, không có căn cứ khẳng định anh T, chị H đã có hành vi chặt phá cây cối và gây thiệt hại đến tài sản của bà Vũ Thị H trên thực tế. Do vậy, việc bà Vũ Thị H khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lâm T buộc anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H phải bồi thường cho bà 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) do tài sản của bà bị xâm phạm là không có căn cứ để chấp nhận.

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H không được chấp nhận nên bà H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Nhưng bà Vũ Thị H là người cao tuổi, thuộc hộ nghèo đã được UBND thị trấn Hùng Sơn xác nhận nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội bà H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 584, Điều 589 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H đối với anh Nguyễn Mạnh T và chị Nguyễn Thị Thúy H.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Vũ Thị H.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết để đề nghị xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 13/2021/DS-ST

Số hiệu:13/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Thao - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về