Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 212/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 212/2022/DS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:159/2022/TLST-DS ngày 14 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXX-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trà Kim Q, sinh năm 1978 (có mặt).

Đa chỉ: 01 dãy B, khu 1, Phường 1,Thị trấn CL, huyện CL, tỉnh Tiền Giang. Tạm trú: ấp T, xã ĐH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1977 (có mặt). Địa chỉ: ấp T, xã ĐH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn trình bày:

Vào khoảng 13 giờ 40 phút ngày 05/01/2022 trong lúc ông đi vào vườn tưới cây thì bị ông Nguyễn Văn T chặn đường ngay trước cửa nhà ông T, đánh trọng thương phải cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy đến ngày 07/01/2022 thì xuất viện. Lúc ông T đánh ông xong ông có báo công an xuống hiện trường lập biên bản, công an lập biên bản xong thì ông đến trạm xá để sơ cứu nhưng trạm xá nói vết thương của ông phải đến Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy mới được.

Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông các khoản thiệt hại như sau:

- Chi phí cấp cứu và điều trị thương tật là 1.188.000 đồng.

- Tổn thất tinh thần: 5.000.000 đồng.

- Tiền thu nhập bị mất là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000 đồng.

- Tiền mất thu nhập của người chăm sóc là 300.000 đồng/ngày x 03 ngày = 900.000 đồng.

- Tiền xe đi lại là 500.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe là 500.000 đồng.

Tng số tiền yêu cầu bồi thường là 10.188.000 đồng.

Bị đơn trình bày:

Vào ngày 05/01/2022, ông đang nằm võng trong nhà thì ông Trà Kim Q chạy xe đạp điện dựng trước nhà ông có dính bùn đất nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. Sau đó ông Q chửi tục nên ông tức, ông chạy ra dùng tay đánh ba cái vào mặt, vai và hông của ông Q, sau đó vợ ông kéo ông vào nhà. Lúc đó ông không hề thấy có vết thương gì trên người ông Q vì ông chỉ đánh bằng tay không hề dùng hung khí. Sau đó 3 ngày, công an xã có vào nhà ông xác minh nhưng ông đi làm không có nhà, khi về nghe vợ ông nói lại thì ông có ra công an xã Điềm Hy trình báo sự việc xảy ra vào ngày 05/01/2022. Việc ông đánh ông Q là do bị ức chế dồn nén, xuất phát từ việc ông Q nhiều lần đi qua lại làm dơ đường trước nhà ông, ông đã lịch sự nhắc nhở nhưng ông Q không nghe còn thách thức, đánh ông chảy máu.

Về yêu cầu của ông Q, ông chỉ đồng ý bồi thường chi phí cấp cứu và điều trị thương tật là 1.188.000 đồng, các khoản bồi thường khác còn lại ông không đồng ý.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Q yêu cầu bồi thường chi phí cứu chữa là 1.188.000 đồng. Tiền xe đi lại là 500.000 đồng. Tiền bồi dưỡng sức khỏe là 500.000 đồng. Tổn thất tinh thần: 5.000.000đồng. Tiền thu nhập bị mất là 300.000 đồng/ngày x 07 ngày = 2.100.000đồng. Tiền mất thu nhập của người chăm sóc là 200.000 đồng/ngày x 03 ngày = 600.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu bồi thường là 9.888.000 đồng. Bị đơn ông Nguyễn Văn T đồng ý bồi thường chi phí cứu chữa là 1.188.000 đồng còn các chi phí khác ông không đồng ý bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Ông Trà Kim Q khởi kiện ông Nguyễn Văn T yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa ông Q và ông T là tranh chấp “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” được quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang theo khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nội dung vụ án:

Xét thấy, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày tại tòa thể hiện, ông Q và ông T có mâu thuẫn với nhau, nguyên nhân là do ông Q chạy xe đạp điện ngang qua cổng nhà ông T làm rớt bùn đất, ông T có nhắc nhở thì ông Q chửi tục nên ông T có hành vi dùng tay đánh vào mặt ông Q và gây thương tích cho ông Q vào ngày 05/01/2022. Ông T thừa nhận có dùng tay đánh vào mặt ông Q vào ngày 05/01/2022 nên tình tiết, sự kiện này ông Q không cần phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi bị gây thương tích, ông Q nhập viện điều trị.

Xét về lỗi, lỗi dẫn đến sự việc là lỗi của ông T, hành vi trái pháp luật của ông T dẫn đến hậu quả xảy ra gây thương tích cho ông Q với chi phí điều trị, tiền thuốc là 1.188.000đồng, ông T tự nguyện đồng ý bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đi với khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần chỉ được Tòa án chấp nhận một phần do không có căn cứ cho thấy ông Q bị đánh gây ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân . Theo Giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện Đa khoa khu vực Cai Lậy thì “vết thương tổn thương nông của da đầu (chấn thương đầu mặt), xuất huyết kết mạc (mắt P), bị người khác đánh”, ông Q bị đánh cũng phần nào ảnh hưởng tâm lý nên cần buộc ông T bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần với số tiền 1.490.000đồng tương đương 01 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định, ông T tự nguyện đồng ý bồi thường nên ghi nhận.

Đi với yêu cầu bồi thường tiền thu nhập thực tế của ông Q do chưa đi làm lại là 2.100.000đồng/07 ngày (03 ngày điều trị tại bệnh viện là 900.000đồng và 04 ngày sau khi ra viện là 1.200.000đồng), ông Q trình bày ông làm nghề xây dựng 01 ngày công lao động của ông là 600.000 đồng nhưng ông chỉ yêu cầu 300.000đồng/ngày. Xét, sau khi ông Q bị ông T đánh thì ông Q nhập viện điều trị 03 ngày. Theo Giấy ra viện ngày 07/01/2022 thì “Phương pháp điều trị: Giảm đau. Ghi chú: uống thuốc theo đơn” không có chỉ định của bác sĩ cho nghỉ ngơi sau điều trị nên ông Q yêu cầu bồi thường tiền thu nhập thực tế bị mất do chưa đi làm lại là 04 ngày là không có cơ sở chấp nhận, ông Q cũng không có tài liệu chứng cứ chứng minh thu nhập thực tế bị mất, ông T tự nguyện đồng ý bồi thường tiền thu nhập thực tế bị mất của ông Q là 900.000đồng/03ngày (ngày 05/01/2022 đến ngày 07/01/2022) nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đi với yêu cầu bồi thường thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc ông Q trong thời gian điều trị tại bệnh viện, tại phiên tòa ông Q trình bày vợ ông làm nghề phụ bán cơm thu nhập khoảng 200.000 đồng/ngày. Khi ông nhập viện vợ ông chăm sóc ông ở bệnh viện 03 ngày thu nhập bị mất là 600.000đồng nên ông thay đổi yêu cầu bồi thường thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc ông trong thời gian điều trị tại bệnh viện là 600.000đồng/03 ngày (200.000đồng/ngày). Mặc dù ông Q không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh thu thập thực tế bị mất của người chăm sóc ông tại bệnh viện nhưng Hội đồng xét xử thấy rằng mức 200.000đồng/ngày là mức lao động phổ thông tại địa phương nên cần chấp nhận.

Đi với tiền bồi dưỡng sức khỏe, ông Q yêu cầu ông T bồi thường 500.000đồng, nhưng không tài liệu chứng cứ chứng minh, cũng như không có chỉ định của bác sĩ, ông T đồng ý bồi thường 200.000 đồng nên ghi nhận.

Đi với yêu cầu tiền xe đi lại là 500.000 đồng, nhưng không cung cấp hóa đơn chứng từ thuê xe. Tuy nhiên, chi phí đi lại là cần thiết, ông T đồng ý bồi thường nên cần chấp nhận.

Như vậy, ông T phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông Q các khoản sau: chi phí cứu chữa 1.188.000đồng+ bồi thường tổn thất tinh thần 1.490.000đồng+ tiền thu nhập thực tế bị mất 900.000đồng+ tiền thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc 600.000đồng+ tiền bồi dưỡng sức khỏe 200.000đồng+ tiền xe 500.000đồng. Tổng cộng là 4.878.000đồng.

[3] Về án phí: Bị đơn ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Q được Tòa án chấp nhận. Ông Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên, trường hợp của ông Q là yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên ông Q được miễn tiền án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 6 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1, Khoản 4 Điều 91, Khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 590 Bộ luật dân sự. Điểm d khoản 1 Điều 12, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trà Kim Q 1/ Buộc ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ bồi thường cho ông Trà Kim Q số tiền là 4.878.000đồng (Bốn triệu tám trăm bảy mươi tám nghìn đồng) thiệt hại về sức khỏe. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày nguyên đơn ông Q có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn ông T chậm thi hành số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

2/ Về án phí: Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 212/2022/DS-ST

Số hiệu:212/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về