TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 61/2020/DS-PT NGÀY 12/05/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI LÀM CÔNG GÂY RA
Ngày 12 tháng 05 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 209/2019/TLPT-DS ngày 24/12/2019 về việc: “Tranh chấp Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra ”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 119/2019/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:130/2019/QĐPT-DS ngày 06 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H( có mặt).
Địa chỉ: Số 164, đường Lê Thái T, phường 2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Luận: Ông Tô Vĩnh H, sinh năm 1980 (ủy quyền ngày 13/03/2018, có mặt).
Địa chỉ: Số 1/1 đường Lưu Văn L, phường 2, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
- Bị đơn: Ông Dương Trường S, sinh năm 1979 (có mặt).
Địa chỉ: Số 36, ấp Tân Q, xã Tân H, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hlà nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện ngày 22/8/2018 của ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H và các lời trình bày tiếp theo của ông H là người đại diện theo ủy quyền của ông Ltrình bày:
Ông Dương Trường S là tài xế chạy xe thuê cho ông L- Chủ DNTN Htừ năm 2005. Đến ngày 17/7/2014, ông S điều khiển xe ô tô biển số 64B-00434 của DNTN Hvận chuyển hành khách thì gây tai nạn giao thông đường bộ, ông S đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Về trách nhiệm dân sự: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên buộc ông L - Chủ DNTN H bồi thường cho bà Hồ Thị Bạch M là 20.000.000đ; bồi thường cho gia đình bà Tuyết H số tiền 329.023.990đ; bồi thường cho bà T 11.865.000đ, tổng cộng là 360.888.990đ. Do các hành khách trên là tài xế S rước trên đường vận chuyển nên ông Lkhông đồng ý chịu trách nhiệm bồi thường vì vậy ông Lchưa thi hành nghĩa vụ bồi thường theo bản án trên. Ông Lyêu cầu ông S có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền bồi thường thiệt hại là 360.888.990đ theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh L.
Ngày 21/6/2019, ông Lcó đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, ông L yêu cầu ông S phải thanh toán cho ông L số tiền ông Lđã bồi thường xong theo Bản án sơ thẩm số 44/2015/HSST ngày 13/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện B. Cụ thể trong bản án này đã ghi nhận ông L bồi thường xong số tiền là 480.144.000đ. Tuy nhiên ông L chỉ yêu cầu ông S phải thanh toán lại là 420.000.000đ phần chênh lệch 60.144.000đ còn lại ông Lđồng ý hỗ trợ ông S không có yêu cầu hoàn trả lại.
Trước đây ông L khởi kiện ông S yêu cầu ông S hoàn trả số tiền bồi thường thiệt hại theo Bản án số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên buộc DNTN H bồi thường cho bà Hồ Thị Bạch M là 20.000.000đ; bồi thường cho gia đình bà Tuyết H số tiền 329.023.990đ; bồi thường cho bà T 11.865.000đ. Do số tiền bồi thường theo bản án trên ông Lchưa bồi thường cho những người bị thiệt hại nên ông L rút yêu cầu khởi kiện, khi nào bồi thường xong thì khởi kiện vụ kiện khác; Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đòi ông S hoàn trả số tiền 420.000.000đ.
- Bị đơn ông Dương Trường S trình bày: Đối với việc ông L- Chủ DNTN H rút yêu cầu khởi kiện đòi ông S hoàn trả số tiền 360.888.990đ theo Bản án hình sự phúc thẩm số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh L thì ông S đồng ý.
Đối với việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của ông L, ông S có ý kiến như sau: Sau tai nạn ông L đã bồi thường cho những người bị hại là 480.144.000đ theo tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2015/HS-ST ngày 13/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L. Tuy nhiên số tiền ông L bồi thường trên là do Công ty bảo hiểm Bảo Minh bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm đối với những người bị hại khi tai nạn xảy ra chứ không phải tiền của ông L bồi thường cho bị hại. Do chiếc xe gây tai nạn biển số 64B-00.434 do Huỳnh Tăng L đăng ký chủ sở hữu, xe có tham gia bảo hiểm. Vì vậy số tiền ông L bồi thường xong cho bị hại theo Bản án số 44/2015/HSST ngày 13/5/2015 là của Công ty bảo hiểm bồi thường không phải tiền của ông Lnên ông S không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông L về việc yêu cầu ông S hoàn trả 420.000.000đ. Ông S chỉ đồng ý hoàn lại cho ông L 50.000.000đ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số:130/2019/DS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 147 và Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 13, 585 và Điều 600 Bộ luật Dân sự năm 2015, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hdo ông Tô Vĩnh H đại diện theo ủy quyền.
Buộc ông Dương Trường S phải hoàn trả cho ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H số tiền đã bồi thường là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H đòi ông S phải hoàn trả số tiền bồi thường còn lại là 370.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông L- Chủ DNTN H đòi ông S phải hoàn trả số tiền 360.888.990 đồng theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Ldo ông H là người đại diện hợp pháp của ông Lrút yêu cầu, về lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án nhưng không bị kháng cáo, kháng nghị.
Sau khi xét xử sơ thẩm;
- Ngày 13 tháng 11 năm 2019 nguyên đơn ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hkháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm là buộc ông S phải hoàn trả số tiền bồi thường còn lại 370.000.000đ cho ông Huỳnh Tăng L.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo nguyên đơn ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H trình bày đã chi số tiền bồi thường thiệt hại về tai nạn giao thông do ông S gây ra tổng cộng là 841.032.000đ. Nay ông L thay đổi kháng cáo, yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt số tiền 200.000.000đ, phần thiệt hại còn lại ông L chịu toàn bộ, đối với những khoản chi phí Công ty bảo hiểm Bảo Minh có chi trả thì ông L được hưởng; ông L tự nguyện không khởi kiện lại đối với yêu cầu ông S trả số tiền 360.888.990 đồng theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh L do ông L rút yêu cầu. Ông L tự nguyện nộp 50% án phí sơ thẩm.
- Bị đơn ông S đồng ý trả ông L số tiền ông Lđã bồi thường thiệt về tai nạn giao thông do ông S gây ra là 200.000.000đ, đối với những khoản chi phí Công ty bảo hiểm Bảo Minh chi trả cho ông L ( nếu có) thì ông L được hưởng; đồng ý ông L tự nguyện không khởi kiện lại đối với yêu cầu ông S trả số tiền 360.888.990 đồng theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Ldo ông Lrút yêu cầu. Ông S tự nguyện nộp 50% án phí sơ thẩm.
Quan điểm của kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long như sau :
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm là phù hợp pháp luật.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
- Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Luận;
- Công nhận sự thỏa thuận của ông Huỳnh Tăng L và ông Dương Trường S là ông S bồi thường cho ông L 200.000.000đ là hoàn tất vụ án, bản án số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh L, ông L bồi thường cho nạn nhân ông tự nguyện không có quyền khởi kiện yêu cầu ông S phải bồi thường cho ông số tiền 360.888.990 đồng.
- Sửa bản án dân sự sơ thẩm;
- Ông Lvà ông S phải nộp án phí sơ thẩm mỗi người 50% và phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của những người tham gia tố tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa sơ thẩm xét xử ngày 06/11/2019 đến ngày 19/11/2019 nhận đơn kháng cáo của ông L còn trong hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ được xem xét tại cấp phúc thẩm theo qui định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông L và ông S tự nguyện thỏa thuận như sau: Ông Dương Trường S có nghĩa vụ trả ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H số tiền ông Huỳnh Tăng L đã bồi thường thiệt hại về tai nạn giao thông do ông Dương Trường S gây ra là 200.000.000đ ( hai trăm triệu đồng); đối với những khoản chi phí do Công ty bảo hiểm Bảo Minh chi trả (nếu có) thì ông L được hưởng; ông Ltự nguyện không được quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu ông S trả số tiền 360.888.990 đồng theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An do ông L rút yêu cầu. Xét sự thỏa thuận giữa ông Lvà ông S là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử thống nhất công nhận sự tự thỏa thuận của các đương sự và sửa bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo là ông L không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Án phí dân sự sơ thẩm được xác định lại: 200.000.000đ x 5%= 10.000.000đ, ông L tự nguyện nộp 5.000.000đ; ông S tự nguyện nộp 5.000.000đ.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Sửa bản án sơ thẩm số 130/2019/DS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
- Công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
1. Sự thỏa thuận của ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H và ông Dương Trường S cụ thể như sau:
- Ông Dương Trường S có nghĩa vụ trả ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H số tiền ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN H đã bồi thường thiệt hại về tai nạn giao thông do ông Dương Trường S gây ra là 200.000.000đ ( hai trăm triệu đồng).
- Đối với những khoản chi phí do Công ty bảo hiểm Bảo Minh chi trả ( nếu có) thì ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hđược hưởng.
- Ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hkhông được quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu ông Dương Trường S trả số tiền 360.888.990 đồng theo bản án có hiệu lực pháp luật số 139/2015/HSPT ngày 03/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An do ông Huỳnh Tăng L- Chủ DNTN Hđã rút yêu cầu khởi kiện.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí : Áp dụng Điều 147,148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Ông Huỳnh Tăng Lkhông phải nộp án phí phúc thẩm; Ông Huỳnh Tăng L tự nguyện nộp án phí sơ thẩm 5.000.000đ (năm triệu đồng) được khấu trừ vào số tiền nộp tạm ứng án phí 9.022.000 đồng ( chín triệu không trăm hai mươi hai ngàn đồng) theo biên lai thu số N0 0003940 ngày 04/9/2018; số tiền 1.378.000 đồng ( một triệu ba trăm bảy mươi tám ngàn đồng) theo biên lai thu số N0 0004642 ngày 25/6/2019 và số tiền 300.000 đồng ( ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số N0 0005039 ngày 19/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Ông L được hoàn trả lại số tiền chênh lệnh là 5.700.000 đồng (năm triệu bảy trăm ngàn đồng).
- Ông Dương Trường S tự nguyện nộp án phí sơ thẩm 5.000.000đ ( năm triệu đồng).
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra (tài xế chạy xe thuê cho công ty) số 61/2020/DS-PT
Số hiệu: | 61/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về